Bạch Nhật Đề Đăng
Chương 13: Sông Quan
Edit: Ys
Vừa mới nói xong, mọi người trong doanh trướng đều kinh ngạc. Mạnh Vãn nói: “Hiện giờ thời tiết vẫn rét lạnh, nổ tung sông Quan thì có tác dụng gì? Nổ được mấy ngày mặt sông sẽ lại đóng băng.”
“Khí hậu ở khu vực sông Quan vốn rất dễ chịu, vào đông nước sông cũng sẽ không đông lại, năm nay gặp phải đợt rét đậm trăm năm khó gặp nên mới đóng băng thôi. Nhưng ta xem thấy đợt rét đậm này không kéo dài bao lâu nữa đâu.” Hạ Tư Mộ bấm ngón tay tính nhẩm, nói: “Mười ngày sau nhiệt độ sẽ tăng mạnh, khí lạnh lui đi, tiết trời sẽ trở nên ấm áp. Nếu trước đó mấy ngày các ngươi cho nổ sông Quan, nước sông sẽ không thể lại đóng băng trong thời gian ngắn. Mặc dù sau đó thời tiết có lạnh trở lại, thời điểm lạnh nhất có lẽ sẽ kết một tầng băng mỏng trên mặt sông, nhưng không có khả năng đưa người qua được nữa.”
Đoạn Tư bật cười, hắn nói: “Ta cảm thấy đây là một ý kiến hay.”
Ngô Thịnh Lục nhìn Hạ Tư Mộ rồi lại nhìn Đoạn Tư, nói: “Cho nổ sông Quan rồi sao nữa? Rút về Lương Châu?”
Đến bây giờ đạp bạch quân vẫn không biết Tần soái gửi qua Đoạn Tư quân lệnh gì, Ngô Thịnh Lục đoán là muốn trì hoãn tốc độ của quân chi viện Đan Chi, bọn họ dùng kế vườn không nhà trống, rồi lại cho nổ sông Quan, có thể kéo chân quân chi viện Đan Chi nửa tháng đã là tốt lắm rồi. Dù sao thì đạp bạch quân hết thảy chỉ có tám vạn quân, vì còn phải bảo vệ Lương Châu nên lần này chỉ phái năm vạn binh lực đến Sóc Châu, thật sự không thể yêu cầu gì hơn được nữa.
Đoạn Tư ngước mắt, cuối cùng mới không mặn không nhạt tung ra một câu như sấm giữa trời quang: “Mệnh lệnh của Tần soái là đạp bạch phải tử thủ Phủ thành Sóc Châu, không được cho quân chi viện Đan Chi đi qua, cũng không thể rút lui.”
Lời vừa nói ra, tất cả mọi người đều im lặng, chỉ còn vài tiếng lách tách vui tai phát ra từ chậu than hồng, có phần không hợp với khung cảnh.
Hạ Tư Mộ thản nhiên uống một ngụm trà.
“Sao có thể? Chúng ta chỉ có năm vạn binh lực!”
“Đội quân đánh về phía nam chính là quân hô lan, người cầm đầu cũng là danh tướng nổi tiếng hung hãn A Ốc Nhĩ Tề.”
Tiếng xì xào bàn tán của nhóm giáo uý vừa vang lên, Ngô Thịnh Lục đã lớn giọng át đi: “Không thể rút lui? Đùa chắc? Không trở về Lương Châu thì chúng ta sẽ chết hết ở chỗ này! Tần soái thật sự nói như vậy hay là tiểu tử ngươi vì quân công mà ngoan cố châu chấu đá voi?”
Ý cười trong mắt Đoạn Tư dần nhạt đi, chỉ còn lại một tầng le lói nơi đáy mắt, thiếu đi vài phần nhiệt tình.
Hai bên bờ sông nhiều năm không có chiến sự lớn nào, chỉ thi thoảng đụng độ một phen. Đại Lương thái bình ca múa một góc trời, binh lính cũng mất đi tâm huyết. Trải qua vài thập kỷ, các thế hệ binh lính đã sớm không còn nhớ đến nỗi sợ hãi khuất nhục và mất nước khi bị người Hồ Khế xâm chiếm.
Hắn đứng dậy, bước từng bước về phía Ngô Thịnh Lục, vừa đi vừa nói: “Ngô Lang tướng nói lạ thật đấy, ta là tướng quân của ngươi, hơn nữa có phải ngươi quên rồi không…”
Hắn đứng trước mặt Ngô Thịnh Lục, cúi người nói: “Cái chết chính là bộ mặt thật của chiến tranh. Dù ngươi có thắng, cũng cần có hài cốt lót đường, thương vong vô số.”
“Dưới chân chúng ta không phải Sóc Châu của Đan Chi, mà là Sóc Châu một thời của vương triều Đại Thịnh. Mấy mươi năm trước tổ tiên chúng ta chôn thây tại nơi đây, bại dưới tay Đan Chi, cho nên gót sắt của chúng mới có thể không kiêng nể gì mà trải rộng khắp mười bảy châu, thậm chí tiến về phía Nam, đánh cướp tàn sát người dân trong thành Lương Châu, ngày hôm nay chúng ta vượt qua biết bao khó khăn gian khổ, chiến đấu hết mình mới có thể trở lại nơi này một lần nữa. Đứng trước mặt tổ quốc, chết một vạn lần cũng không chối từ.”
Cả doanh trướng lâm vào yên tĩnh, Ngô Thịnh Lục ngẩng đầu nhìn Đoạn Tư, bàn tay nắm chặt niết đến các khớp tay vang lên giòn giã.
Hắn ta nhớ đến thi thể chất đống ở đầu đường cuối ngõ thành Lương Châu, máu trên người đều nóng lên. Đạo lý mà Đoạn Tư nói không phải hắn ta không hiểu, nhưng binh lực nhỏ bé của bọn họ đứng trước đại quân Đan Chi chỉ như một con kiến đứng trước bánh xe mà thôi, hắn ta vẫn còn hoài bão thống lĩnh một quân, chẳng lẽ phải chôn thây tại nơi này?
Đoạn Tư lại cười rộ lên. Hắn hơi nâng cằm, khoé mặt cong lên.
“Ngô Lang tướng không cần phải vậy, chúng ta sẽ thắng thôi.”
Ngô Thịnh Lục đã hơi dao động, nhưng vẫn không cam lòng.
“Ngươi nói có thể thắng là thắng được sao?”
“Ngô lang tướng, tuy ta có hơi độc đoán, nhưng cho đến bây giờ ta vẫn chưa thua trận nào, không phải sao?”
Ngô Thịnh Lục nhìn chằm chằm Đoạn Tư một lúc lâu, đập bàn đứng dậy, vỗ ra một vết nứt trên chiếc bàn. Hắn ta chỉ vào Đoạn Tư nói: “Lão tử con mẹ nó lại tin ngươi thêm một lần nữa, mẹ kiếp, ai sợ chết chứ, sợ chết thì có ích lợi gì, lão tử phải làm được tướng quân! Nếu người Đan Chi không thể cút về nơi của bọn chúng thì ta có thành quỷ cũng không buông tha cho Đoạn gia các ngươi!”
Hai mắt Đoạn Tư nóng rực, đẩy tay Ngô Thịnh Lục về, nói: “Yên tâm đi Lamg tướng, nếu ngươi thì quỷ thì ta cũng không thoát khỏi số phận.”
Nhìn Đoạn Tư nho nhã lễ độ, Ngô Thịnh Lục đột nhiên nhớ tới, hình như hắn ta từng nghe nói thiếu gia quý tộc này vốn nên được bồi dưỡng thành người chấp chưởng, quan chấp chưởng địa vị cao hơn tướng quân rất nhiều. Nghĩ vậy, hắn ta chợt nổi lòng thương hại.
Đoạn Tư lại hồn nhiên như không, quay người lại hành lễ với mọi người trong doanh trướng.
“Phủ thành Sóc Châu, nhờ vào các vị.”
Nhóm giáo uý trong doanh trướng lục tục hành lễ, những người này đa phần đều lớn tuổi hơn Đoạn Tư, vừa rồi bị màn đối thoại của Đoạn Tư và Ngô Thịnh Lục làm cho chấn động, ai nấy đều mang vẻ mặt bi tráng.
Khi ra khỏi doanh trướng, Hạ Tư Mộ đi bên cạnh Đoạn Tư, nàng nhìn bóng dáng của Ngô Thịnh Lục phía trước, nửa đùa nửa thật nói: “Theo ta thấy, Ngô Thịnh Lục này chán ghét ngươi như vậy, quá nửa là do ngươi rất đẹp.”
Người trong quân đa số đều không thích nam tử anh tuấn sạch sẽ, luôn lấy sự thô bạo, hung dữ làm tự hào, huống hồ Đoạn Tư lại anh tuấn bất phàm thế này.
Đoạn Tư nhướn mày, bọn họ đã ra khỏi doanh trướng, ánh nắng chan hoà, gió thổi rất mạnh. Dây cột tóc tung bay trong gió, trâm bạc vấn tóc lấp lánh dưới ánh mặt trời, giống như đôi mắt cong lên của hắn.
“Thật lấy làm vinh hạnh khi nhận được lời khen.” Hắn mỉm cười đáp, dường như rất vui vẻ.
“Thật ra Ngô Lang tướng sẽ tin tưởng ngươi.” Hạ Tư Mộ nói.
Từ Lương Châu đến Sóc Châu, có trận nào là dễ đánh đâu. Mỗi trận chiến Đoạn Tư đều dẫn theo Ngô Thịnh Lục, qua bao nhiêu là trận thắng, từ sâu trong đáy lòng hắn ta đã chịu phục rồi. Nếu không cũng sẽ chẳng biết rõ nội tình mà vẫn nghe lệnh Đoạn Tư tấn công Sóc Châu.
Các giáo uý, thậm chí là cả binh lính đạp bạch, có lẽ cũng đã công nhận hắn qua từng ấy trận chiến.
Nhưng muốn Ngô Thịnh Lục cúi đầu trước Đoạn Tư nhỏ hơn mình gần mười tuổi thì vẫn quá khó khăn với hắn ta.
“Ngươi có nắm chắc phần thắng không?”
Đây là sự chênh lệch cực lớn giữa hai mươi vạn và ba vạn binh lực.
“Nếu nắm chắc được mười phần thắng thì không phải là một con bạc giỏi nữa.”
Đoạn Tư chớp chớp mắt, hắn tiễn Hạ Tư Mộ lên xe ngựa. Khi xe ngựa bắt đầu chạy, Hạ Tư Mộ vén màn xe lên, phát hiện Đoạn Tư vẫn đứng đó. Thời điểm ánh mắt hắn và Hạ Tư Mộ chạm nhau, hắn cười rộ lên vẫy tay với nàng.
Trông thật cởi mở và dịu dàng.
Cởi mở và dịu dàng, lại là một con bạc điên cuồng.
Hạ Tư Mộ buông bức màn xuống, tấm tắc cảm thán.
Xe ngựa chở Hạ Tư Mộ đã rời đi, đến nghỉ ngơi tại Lâm gia trong thành. Hàn Lệnh Thu nhìn theo xe ngựa đã đi xa, sau đó chuyển mắt lên người Đoạn Tư.
Kỳ thật Đoạn Tư chỉ nhỏ hơn hắn ta một chút, tuổi tác cũng xêm xêm. Vị quý nhân đến từ Nam Đô này mỗi một động tác giơ tay nhấc chân đều khác xa so với đám nam nhân thô kệch trong quân, bụng dạ cũng không thể đoán được, ngày thường luôn mang theo gương mặt tươi cười, dù trong lòng có nổi sóng thì ngoài mặt vẫn là một mặt hồ yên ả.
Hắn ta luôn cảm thấy người này rất quen, đặc biệt là lúc Đoạn Tư cười rộ lên, cảm giác quen thuộc càng trở nên rõ ràng.
“Tướng quân!” Lần này rốt cuộc hắn ta cũng gọi Đoạn Tư, Đoạn Tư quay đầu nhìn hắn ta, ý bảo hắn ta nói tiếp.
Hàn Lệnh Thu trầm mặc một hồi mới hỏi: “Tướng quân, có phải ngài từng gặp ta rồi không? Khoảng tầm… năm sáu năm về trước.”
Ánh mắt Đoạn Tư loé lên, hắn chắp tay sau lưng, cười nói: “Sao lại hỏi như vậy, nếu chúng ta đã gặp nhau trước đây, chẳng lẽ ngươi không nhớ sao?”
Hàn Lệnh Thu do dự một lát, khẽ cắn môi đáp: “Tướng quân đại nhân, thật không dám giấu giếm, năm sáu năm trước ta từng bị trọng thương, để lại vết sẹo này trên mặt, sau khi khôi phục vết thương thì không còn nhớ rõ chuyện trước kia nữa.”
Ngay cả cái tên Hàn Lệnh Thu này cũng là do người thu lưu hắn ta đặt cho. Đối với những chuyện trước khi bị thương, hắn ta chỉ có một ấn tượng cực kỳ mơ hồ, hình như có ai đó nói với hắn ta – đi về phương Nam, đi đến Đại Lương, đừng quay đầu lại.
Lúc hắn ta bị thương ở Đan Chi, cũng vì lời nói nhớ rõ duy nhất này mà lén chạy trốn đến Đại Lương sau khi vết thương lành lại.
Mất trí nhớ không ảnh hưởng quá lớn đến sinh hoạt của hắn ta, dường như hắn ta đã quen sống một mình rồi, cũng không nghĩ muốn phục hồi lại. Chỉ là lần đầu tiên thấy mặt Đoạn Tư, đột nhiên thấy Đoạn Tư rất quen thuộc.
Giống như cố nhân trở về.
Đoạn Tư có vẻ vô cùng kinh ngạc, sau đó lộ ra vẻ tiếc nuối, hắn lắc đầu nói: “Không ngờ Hàn giáo uý lại bị thương như vậy, đáng tiếc năm sáu năm trước ta còn ở Đại Châu, cũng không nhớ đã từng gặp ngươi.”
Hàn Lệnh Thu tỏ vẻ hơi hậm hực, hắn ta hành lễ nói phải. Đoạn Tư vỗ vỗ vài hắn ta an ủi rồi quay người trở lại doanh trướng.
Vào thời khắc Đoạn Tư quay người sang hướng khác, ý cười rơi vào đáy mắt, mập mờ không rõ.
Hạ Tư Mộ không định can thiệp vào chuyện bọn họ cho nổ sông Quan. Nơi đóng quân trong thành cách Lâm gia khá xa, nàng liền để cơ thể này ở trong phòng nghỉ ngơi dưỡng sức, thỉnh thoảng tâm sự với Phong Di, rồi lật sách quỷ xem thiên hạ xảy ra những chuyện gì trong khi nàng nghỉ ngơi.
Cái tên Thiệu Âm Âm biến mất khỏi sách quỷ đúng thời hạn, điều này chứng tỏ bà ta đã rời khỏi luân hồi, từ đây không còn chút dấu vết nào trên thế gian nữa.
Quan Hoài quả nhiên nghe lời.
Lão già này vẫn luôn gió chiều nào theo chiều nấy, năm đó khi nàng bình định cuộc nổi loạn, lão ta là người đầu tiên phản chiến quy thuận, từ trước đến nay luôn biết cách đọc ánh mắt để tránh vạ vào mình.
Hạ Tư Mộ tựa lưng vào ghế, bình thản lật sách quỷ, nhìn những bi kịch trên thế gian.
Phủ Lương Châu sau cuộc tàn sát toàn thành xuất hiện rất nhiều linh hồn lang thang, những người chết thảm thường rất dễ trở thành linh hồn lang thang, nhưng chấp niệm không đủ lớn, hơn phân nửa sẽ bị những linh hồn khác ăn thịt, cuối cùng không thể hoá thành quỷ được.
Những người có chấp niệm mạnh mẽ, tựa như Quan Hoài kia. Cả một đời lão ta tiêu tán hết gia sản, cầu tiên vấn đạo, dùng không biết bao nhiêu loại thuốc, chỉ tâm tâm niệm niệm muốn được trường sinh bất lão, sống mãi với đời. Thế nhưng cũng chỉ gắng gượng được hơn trăm tuổi rồi qua đời, chết rồi vẫn không thể buông bỏ chấp niệm, cắn nuốt mấy trăm linh hồn lang thang, hoá thành quỷ.
Trở thành quỷ xong, lão ta cũng là con quỷ sống lâu nhất quỷ giới, ba ngàn năm không chết, chấp niệm này đúng là rất sâu.
Hạ Tư Mộ gấp sách quỷ lại, nàng chống cằm lẩm bẩm: “Nhưng mà vẫn hâm mộ các ngươi quá.”
Biết rõ mình muốn cái gì, nhớ mãi không quên nó mà sống cả đời, cũng lại vì nó mà thoát khỏi luân hồi, chết hơn một ngàn năm.
Không giống nàng, mơ màng chẳng hiểu gì vừa sinh ra đã là quỷ.
Gió khẽ nổi lên một cách bất thường, những sợi tơ trắng cuộn lại với nhau. Hạ Tư Mộ nhíu mày, nàng đi đến bên cửa sổ đẩy cửa ra, lập tức thấy bên trên những ngôi nhà lụp xụp, vô số ánh sáng nổi lên ở ngoại ô phía Nam thành, phập phồng trong màn đêm, thắp sáng cả đất trời như một đám lửa sáng rực.
Người chết?
Phía Nam thành là sông Quan, tiểu tướng quân cho nổ một con sông có thể chết nhiều người như vậy?
Hạ Tư Mộ phất ống tay áo, đặt thân thể ngay ngắn trên giường, sau khi xuất hồn, đèn quỷ bên hông lấp loé một cái, trong nháy mắt nàng đã xuất hiện ở bên bờ sông Quan.
Đôi giày đỏ đế trắng đạp lên nền đất mềm xốp bên sông, ngay lập tức, nàng cảm thấy mặt đất phía dưới rung chuyển, lớp băng trên mặt sông nứt ra theo từng tiếng nổ lớn và ánh lửa phát ra, hạt băng bay tứ tán, xuyên qua hồn phách không có thực thể của nàng rơi xuống đất. Cả thế giới chấn động kinh hoàng, trên mặt băng có những binh lính đen kịt không nhìn ra mặt mũi, vừa khóc vừa la hét, theo mặt băng vỡ vụn mà rơi xuống lòng sông lạnh thấu xương.
Sông Quan tối tăm mà trầm mặc, tựa như một con quái vật khổng lồ đang há to cái miệng như chậu máu không ngừng cắn nuốt, theo sau là trăm ngàn ánh sáng hồn hoả rực rỡ bay lên từ miệng nó.
Lại thêm một khung cảnh chết chóc, sách quỷ sắp sửa có thêm rất nhiều tên họ của linh hồn lang thang đây.
Sao người Hồ Khế lại qua sông vào thời điểm này? Lại còn đúng lúc Đoạn Tư đang cho nổ sông Quan?
Hạ Tư Mộ xoay người sang chỗ khác, ngay lập tức nhìn thấy Đoạn Tư đứng giữa rừng cây tăm tối và những tảng đá. Hàn giáo uý và Mạnh Vãn đứng phía sau hắn, còn có rất nhiều binh lính Đại Lương đang ẩn nấp trong rừng cây. Những binh lính đó xếp thành đội hình cung tên, bất kỳ tên Hồ Khế nào cố gắng bò lên bờ bên này đều bị vạn tiễn bắn sang, chết ngay bên bờ.
Đôi mắt hắn cất giấu một ý cười nhàn nhạt, thân người cao gầy mà anh tuấn ẩn ẩn hiện hiện giữa những tán cây, hệt như một cây tùng bách mọc lên giữa rừng.
Hạ Tư Mộ bước từng bước đến bên cạnh Đoạn Tư, đứng ở trước mặt hắn, bên bờ vực thẳm của địa ngục.
“Người Hồ Khế ở Vũ Châu muốn qua sông Quan đánh lén Phủ thành, ngươi mai phục ở đây, còn thực hiện thành công kế hoạch cho nổ sông Quan. Một hòn đá trúng hai con chim nha tiểu tướng quân. Có phải ngươi đã sớm biết người Hồ Khế sẽ đánh lén không?” Hạ Tư Mộ cười nói.
Giờ phút này Đoạn Tư không thể nhìn thấy hồn phách của nàng, càng không thể nghe thấy giọng nàng.
Đương nhiên, hắn cũng không thể thấy thế giới mà nàng trông thấy, không thể thấy gió trắng như tơ nhện hay hồn hoả sáng trưng như thiêu đốt giữa đất trời.
Hạ Tư Mộ đến gần Đoạn Tư, hơi nhón chân nhìn thẳng vào trong mắt hắn.
Đôi mắt hắn sáng ngời mà ngay thẳng, tròng mắt đen thăm thẳm như một tấm gương màu đen. Trong gương không có nàng, không có ánh sáng hồn hoả, chỉ có những ánh lửa từ vụ nổ và quân địch máu thịt mơ hồ.
“Trong mắt người sống, cái chết trông như thế nào vậy?”
Hạ Tư Mộ nhìn vào mắt hắn, dường như muốn nhìn thấy một dáng hình khác của cái chết từ trong đôi mắt hắn.
Đoạn Tư khẽ chớp mắt, hắn chợt người nhẹ, nói: “Hạ Tiểu Tiểu.”
Vừa mới nói xong, mọi người trong doanh trướng đều kinh ngạc. Mạnh Vãn nói: “Hiện giờ thời tiết vẫn rét lạnh, nổ tung sông Quan thì có tác dụng gì? Nổ được mấy ngày mặt sông sẽ lại đóng băng.”
“Khí hậu ở khu vực sông Quan vốn rất dễ chịu, vào đông nước sông cũng sẽ không đông lại, năm nay gặp phải đợt rét đậm trăm năm khó gặp nên mới đóng băng thôi. Nhưng ta xem thấy đợt rét đậm này không kéo dài bao lâu nữa đâu.” Hạ Tư Mộ bấm ngón tay tính nhẩm, nói: “Mười ngày sau nhiệt độ sẽ tăng mạnh, khí lạnh lui đi, tiết trời sẽ trở nên ấm áp. Nếu trước đó mấy ngày các ngươi cho nổ sông Quan, nước sông sẽ không thể lại đóng băng trong thời gian ngắn. Mặc dù sau đó thời tiết có lạnh trở lại, thời điểm lạnh nhất có lẽ sẽ kết một tầng băng mỏng trên mặt sông, nhưng không có khả năng đưa người qua được nữa.”
Đoạn Tư bật cười, hắn nói: “Ta cảm thấy đây là một ý kiến hay.”
Ngô Thịnh Lục nhìn Hạ Tư Mộ rồi lại nhìn Đoạn Tư, nói: “Cho nổ sông Quan rồi sao nữa? Rút về Lương Châu?”
Đến bây giờ đạp bạch quân vẫn không biết Tần soái gửi qua Đoạn Tư quân lệnh gì, Ngô Thịnh Lục đoán là muốn trì hoãn tốc độ của quân chi viện Đan Chi, bọn họ dùng kế vườn không nhà trống, rồi lại cho nổ sông Quan, có thể kéo chân quân chi viện Đan Chi nửa tháng đã là tốt lắm rồi. Dù sao thì đạp bạch quân hết thảy chỉ có tám vạn quân, vì còn phải bảo vệ Lương Châu nên lần này chỉ phái năm vạn binh lực đến Sóc Châu, thật sự không thể yêu cầu gì hơn được nữa.
Đoạn Tư ngước mắt, cuối cùng mới không mặn không nhạt tung ra một câu như sấm giữa trời quang: “Mệnh lệnh của Tần soái là đạp bạch phải tử thủ Phủ thành Sóc Châu, không được cho quân chi viện Đan Chi đi qua, cũng không thể rút lui.”
Lời vừa nói ra, tất cả mọi người đều im lặng, chỉ còn vài tiếng lách tách vui tai phát ra từ chậu than hồng, có phần không hợp với khung cảnh.
Hạ Tư Mộ thản nhiên uống một ngụm trà.
“Sao có thể? Chúng ta chỉ có năm vạn binh lực!”
“Đội quân đánh về phía nam chính là quân hô lan, người cầm đầu cũng là danh tướng nổi tiếng hung hãn A Ốc Nhĩ Tề.”
Tiếng xì xào bàn tán của nhóm giáo uý vừa vang lên, Ngô Thịnh Lục đã lớn giọng át đi: “Không thể rút lui? Đùa chắc? Không trở về Lương Châu thì chúng ta sẽ chết hết ở chỗ này! Tần soái thật sự nói như vậy hay là tiểu tử ngươi vì quân công mà ngoan cố châu chấu đá voi?”
Ý cười trong mắt Đoạn Tư dần nhạt đi, chỉ còn lại một tầng le lói nơi đáy mắt, thiếu đi vài phần nhiệt tình.
Hai bên bờ sông nhiều năm không có chiến sự lớn nào, chỉ thi thoảng đụng độ một phen. Đại Lương thái bình ca múa một góc trời, binh lính cũng mất đi tâm huyết. Trải qua vài thập kỷ, các thế hệ binh lính đã sớm không còn nhớ đến nỗi sợ hãi khuất nhục và mất nước khi bị người Hồ Khế xâm chiếm.
Hắn đứng dậy, bước từng bước về phía Ngô Thịnh Lục, vừa đi vừa nói: “Ngô Lang tướng nói lạ thật đấy, ta là tướng quân của ngươi, hơn nữa có phải ngươi quên rồi không…”
Hắn đứng trước mặt Ngô Thịnh Lục, cúi người nói: “Cái chết chính là bộ mặt thật của chiến tranh. Dù ngươi có thắng, cũng cần có hài cốt lót đường, thương vong vô số.”
“Dưới chân chúng ta không phải Sóc Châu của Đan Chi, mà là Sóc Châu một thời của vương triều Đại Thịnh. Mấy mươi năm trước tổ tiên chúng ta chôn thây tại nơi đây, bại dưới tay Đan Chi, cho nên gót sắt của chúng mới có thể không kiêng nể gì mà trải rộng khắp mười bảy châu, thậm chí tiến về phía Nam, đánh cướp tàn sát người dân trong thành Lương Châu, ngày hôm nay chúng ta vượt qua biết bao khó khăn gian khổ, chiến đấu hết mình mới có thể trở lại nơi này một lần nữa. Đứng trước mặt tổ quốc, chết một vạn lần cũng không chối từ.”
Cả doanh trướng lâm vào yên tĩnh, Ngô Thịnh Lục ngẩng đầu nhìn Đoạn Tư, bàn tay nắm chặt niết đến các khớp tay vang lên giòn giã.
Hắn ta nhớ đến thi thể chất đống ở đầu đường cuối ngõ thành Lương Châu, máu trên người đều nóng lên. Đạo lý mà Đoạn Tư nói không phải hắn ta không hiểu, nhưng binh lực nhỏ bé của bọn họ đứng trước đại quân Đan Chi chỉ như một con kiến đứng trước bánh xe mà thôi, hắn ta vẫn còn hoài bão thống lĩnh một quân, chẳng lẽ phải chôn thây tại nơi này?
Đoạn Tư lại cười rộ lên. Hắn hơi nâng cằm, khoé mặt cong lên.
“Ngô Lang tướng không cần phải vậy, chúng ta sẽ thắng thôi.”
Ngô Thịnh Lục đã hơi dao động, nhưng vẫn không cam lòng.
“Ngươi nói có thể thắng là thắng được sao?”
“Ngô lang tướng, tuy ta có hơi độc đoán, nhưng cho đến bây giờ ta vẫn chưa thua trận nào, không phải sao?”
Ngô Thịnh Lục nhìn chằm chằm Đoạn Tư một lúc lâu, đập bàn đứng dậy, vỗ ra một vết nứt trên chiếc bàn. Hắn ta chỉ vào Đoạn Tư nói: “Lão tử con mẹ nó lại tin ngươi thêm một lần nữa, mẹ kiếp, ai sợ chết chứ, sợ chết thì có ích lợi gì, lão tử phải làm được tướng quân! Nếu người Đan Chi không thể cút về nơi của bọn chúng thì ta có thành quỷ cũng không buông tha cho Đoạn gia các ngươi!”
Hai mắt Đoạn Tư nóng rực, đẩy tay Ngô Thịnh Lục về, nói: “Yên tâm đi Lamg tướng, nếu ngươi thì quỷ thì ta cũng không thoát khỏi số phận.”
Nhìn Đoạn Tư nho nhã lễ độ, Ngô Thịnh Lục đột nhiên nhớ tới, hình như hắn ta từng nghe nói thiếu gia quý tộc này vốn nên được bồi dưỡng thành người chấp chưởng, quan chấp chưởng địa vị cao hơn tướng quân rất nhiều. Nghĩ vậy, hắn ta chợt nổi lòng thương hại.
Đoạn Tư lại hồn nhiên như không, quay người lại hành lễ với mọi người trong doanh trướng.
“Phủ thành Sóc Châu, nhờ vào các vị.”
Nhóm giáo uý trong doanh trướng lục tục hành lễ, những người này đa phần đều lớn tuổi hơn Đoạn Tư, vừa rồi bị màn đối thoại của Đoạn Tư và Ngô Thịnh Lục làm cho chấn động, ai nấy đều mang vẻ mặt bi tráng.
Khi ra khỏi doanh trướng, Hạ Tư Mộ đi bên cạnh Đoạn Tư, nàng nhìn bóng dáng của Ngô Thịnh Lục phía trước, nửa đùa nửa thật nói: “Theo ta thấy, Ngô Thịnh Lục này chán ghét ngươi như vậy, quá nửa là do ngươi rất đẹp.”
Người trong quân đa số đều không thích nam tử anh tuấn sạch sẽ, luôn lấy sự thô bạo, hung dữ làm tự hào, huống hồ Đoạn Tư lại anh tuấn bất phàm thế này.
Đoạn Tư nhướn mày, bọn họ đã ra khỏi doanh trướng, ánh nắng chan hoà, gió thổi rất mạnh. Dây cột tóc tung bay trong gió, trâm bạc vấn tóc lấp lánh dưới ánh mặt trời, giống như đôi mắt cong lên của hắn.
“Thật lấy làm vinh hạnh khi nhận được lời khen.” Hắn mỉm cười đáp, dường như rất vui vẻ.
“Thật ra Ngô Lang tướng sẽ tin tưởng ngươi.” Hạ Tư Mộ nói.
Từ Lương Châu đến Sóc Châu, có trận nào là dễ đánh đâu. Mỗi trận chiến Đoạn Tư đều dẫn theo Ngô Thịnh Lục, qua bao nhiêu là trận thắng, từ sâu trong đáy lòng hắn ta đã chịu phục rồi. Nếu không cũng sẽ chẳng biết rõ nội tình mà vẫn nghe lệnh Đoạn Tư tấn công Sóc Châu.
Các giáo uý, thậm chí là cả binh lính đạp bạch, có lẽ cũng đã công nhận hắn qua từng ấy trận chiến.
Nhưng muốn Ngô Thịnh Lục cúi đầu trước Đoạn Tư nhỏ hơn mình gần mười tuổi thì vẫn quá khó khăn với hắn ta.
“Ngươi có nắm chắc phần thắng không?”
Đây là sự chênh lệch cực lớn giữa hai mươi vạn và ba vạn binh lực.
“Nếu nắm chắc được mười phần thắng thì không phải là một con bạc giỏi nữa.”
Đoạn Tư chớp chớp mắt, hắn tiễn Hạ Tư Mộ lên xe ngựa. Khi xe ngựa bắt đầu chạy, Hạ Tư Mộ vén màn xe lên, phát hiện Đoạn Tư vẫn đứng đó. Thời điểm ánh mắt hắn và Hạ Tư Mộ chạm nhau, hắn cười rộ lên vẫy tay với nàng.
Trông thật cởi mở và dịu dàng.
Cởi mở và dịu dàng, lại là một con bạc điên cuồng.
Hạ Tư Mộ buông bức màn xuống, tấm tắc cảm thán.
Xe ngựa chở Hạ Tư Mộ đã rời đi, đến nghỉ ngơi tại Lâm gia trong thành. Hàn Lệnh Thu nhìn theo xe ngựa đã đi xa, sau đó chuyển mắt lên người Đoạn Tư.
Kỳ thật Đoạn Tư chỉ nhỏ hơn hắn ta một chút, tuổi tác cũng xêm xêm. Vị quý nhân đến từ Nam Đô này mỗi một động tác giơ tay nhấc chân đều khác xa so với đám nam nhân thô kệch trong quân, bụng dạ cũng không thể đoán được, ngày thường luôn mang theo gương mặt tươi cười, dù trong lòng có nổi sóng thì ngoài mặt vẫn là một mặt hồ yên ả.
Hắn ta luôn cảm thấy người này rất quen, đặc biệt là lúc Đoạn Tư cười rộ lên, cảm giác quen thuộc càng trở nên rõ ràng.
“Tướng quân!” Lần này rốt cuộc hắn ta cũng gọi Đoạn Tư, Đoạn Tư quay đầu nhìn hắn ta, ý bảo hắn ta nói tiếp.
Hàn Lệnh Thu trầm mặc một hồi mới hỏi: “Tướng quân, có phải ngài từng gặp ta rồi không? Khoảng tầm… năm sáu năm về trước.”
Ánh mắt Đoạn Tư loé lên, hắn chắp tay sau lưng, cười nói: “Sao lại hỏi như vậy, nếu chúng ta đã gặp nhau trước đây, chẳng lẽ ngươi không nhớ sao?”
Hàn Lệnh Thu do dự một lát, khẽ cắn môi đáp: “Tướng quân đại nhân, thật không dám giấu giếm, năm sáu năm trước ta từng bị trọng thương, để lại vết sẹo này trên mặt, sau khi khôi phục vết thương thì không còn nhớ rõ chuyện trước kia nữa.”
Ngay cả cái tên Hàn Lệnh Thu này cũng là do người thu lưu hắn ta đặt cho. Đối với những chuyện trước khi bị thương, hắn ta chỉ có một ấn tượng cực kỳ mơ hồ, hình như có ai đó nói với hắn ta – đi về phương Nam, đi đến Đại Lương, đừng quay đầu lại.
Lúc hắn ta bị thương ở Đan Chi, cũng vì lời nói nhớ rõ duy nhất này mà lén chạy trốn đến Đại Lương sau khi vết thương lành lại.
Mất trí nhớ không ảnh hưởng quá lớn đến sinh hoạt của hắn ta, dường như hắn ta đã quen sống một mình rồi, cũng không nghĩ muốn phục hồi lại. Chỉ là lần đầu tiên thấy mặt Đoạn Tư, đột nhiên thấy Đoạn Tư rất quen thuộc.
Giống như cố nhân trở về.
Đoạn Tư có vẻ vô cùng kinh ngạc, sau đó lộ ra vẻ tiếc nuối, hắn lắc đầu nói: “Không ngờ Hàn giáo uý lại bị thương như vậy, đáng tiếc năm sáu năm trước ta còn ở Đại Châu, cũng không nhớ đã từng gặp ngươi.”
Hàn Lệnh Thu tỏ vẻ hơi hậm hực, hắn ta hành lễ nói phải. Đoạn Tư vỗ vỗ vài hắn ta an ủi rồi quay người trở lại doanh trướng.
Vào thời khắc Đoạn Tư quay người sang hướng khác, ý cười rơi vào đáy mắt, mập mờ không rõ.
Hạ Tư Mộ không định can thiệp vào chuyện bọn họ cho nổ sông Quan. Nơi đóng quân trong thành cách Lâm gia khá xa, nàng liền để cơ thể này ở trong phòng nghỉ ngơi dưỡng sức, thỉnh thoảng tâm sự với Phong Di, rồi lật sách quỷ xem thiên hạ xảy ra những chuyện gì trong khi nàng nghỉ ngơi.
Cái tên Thiệu Âm Âm biến mất khỏi sách quỷ đúng thời hạn, điều này chứng tỏ bà ta đã rời khỏi luân hồi, từ đây không còn chút dấu vết nào trên thế gian nữa.
Quan Hoài quả nhiên nghe lời.
Lão già này vẫn luôn gió chiều nào theo chiều nấy, năm đó khi nàng bình định cuộc nổi loạn, lão ta là người đầu tiên phản chiến quy thuận, từ trước đến nay luôn biết cách đọc ánh mắt để tránh vạ vào mình.
Hạ Tư Mộ tựa lưng vào ghế, bình thản lật sách quỷ, nhìn những bi kịch trên thế gian.
Phủ Lương Châu sau cuộc tàn sát toàn thành xuất hiện rất nhiều linh hồn lang thang, những người chết thảm thường rất dễ trở thành linh hồn lang thang, nhưng chấp niệm không đủ lớn, hơn phân nửa sẽ bị những linh hồn khác ăn thịt, cuối cùng không thể hoá thành quỷ được.
Những người có chấp niệm mạnh mẽ, tựa như Quan Hoài kia. Cả một đời lão ta tiêu tán hết gia sản, cầu tiên vấn đạo, dùng không biết bao nhiêu loại thuốc, chỉ tâm tâm niệm niệm muốn được trường sinh bất lão, sống mãi với đời. Thế nhưng cũng chỉ gắng gượng được hơn trăm tuổi rồi qua đời, chết rồi vẫn không thể buông bỏ chấp niệm, cắn nuốt mấy trăm linh hồn lang thang, hoá thành quỷ.
Trở thành quỷ xong, lão ta cũng là con quỷ sống lâu nhất quỷ giới, ba ngàn năm không chết, chấp niệm này đúng là rất sâu.
Hạ Tư Mộ gấp sách quỷ lại, nàng chống cằm lẩm bẩm: “Nhưng mà vẫn hâm mộ các ngươi quá.”
Biết rõ mình muốn cái gì, nhớ mãi không quên nó mà sống cả đời, cũng lại vì nó mà thoát khỏi luân hồi, chết hơn một ngàn năm.
Không giống nàng, mơ màng chẳng hiểu gì vừa sinh ra đã là quỷ.
Gió khẽ nổi lên một cách bất thường, những sợi tơ trắng cuộn lại với nhau. Hạ Tư Mộ nhíu mày, nàng đi đến bên cửa sổ đẩy cửa ra, lập tức thấy bên trên những ngôi nhà lụp xụp, vô số ánh sáng nổi lên ở ngoại ô phía Nam thành, phập phồng trong màn đêm, thắp sáng cả đất trời như một đám lửa sáng rực.
Người chết?
Phía Nam thành là sông Quan, tiểu tướng quân cho nổ một con sông có thể chết nhiều người như vậy?
Hạ Tư Mộ phất ống tay áo, đặt thân thể ngay ngắn trên giường, sau khi xuất hồn, đèn quỷ bên hông lấp loé một cái, trong nháy mắt nàng đã xuất hiện ở bên bờ sông Quan.
Đôi giày đỏ đế trắng đạp lên nền đất mềm xốp bên sông, ngay lập tức, nàng cảm thấy mặt đất phía dưới rung chuyển, lớp băng trên mặt sông nứt ra theo từng tiếng nổ lớn và ánh lửa phát ra, hạt băng bay tứ tán, xuyên qua hồn phách không có thực thể của nàng rơi xuống đất. Cả thế giới chấn động kinh hoàng, trên mặt băng có những binh lính đen kịt không nhìn ra mặt mũi, vừa khóc vừa la hét, theo mặt băng vỡ vụn mà rơi xuống lòng sông lạnh thấu xương.
Sông Quan tối tăm mà trầm mặc, tựa như một con quái vật khổng lồ đang há to cái miệng như chậu máu không ngừng cắn nuốt, theo sau là trăm ngàn ánh sáng hồn hoả rực rỡ bay lên từ miệng nó.
Lại thêm một khung cảnh chết chóc, sách quỷ sắp sửa có thêm rất nhiều tên họ của linh hồn lang thang đây.
Sao người Hồ Khế lại qua sông vào thời điểm này? Lại còn đúng lúc Đoạn Tư đang cho nổ sông Quan?
Hạ Tư Mộ xoay người sang chỗ khác, ngay lập tức nhìn thấy Đoạn Tư đứng giữa rừng cây tăm tối và những tảng đá. Hàn giáo uý và Mạnh Vãn đứng phía sau hắn, còn có rất nhiều binh lính Đại Lương đang ẩn nấp trong rừng cây. Những binh lính đó xếp thành đội hình cung tên, bất kỳ tên Hồ Khế nào cố gắng bò lên bờ bên này đều bị vạn tiễn bắn sang, chết ngay bên bờ.
Đôi mắt hắn cất giấu một ý cười nhàn nhạt, thân người cao gầy mà anh tuấn ẩn ẩn hiện hiện giữa những tán cây, hệt như một cây tùng bách mọc lên giữa rừng.
Hạ Tư Mộ bước từng bước đến bên cạnh Đoạn Tư, đứng ở trước mặt hắn, bên bờ vực thẳm của địa ngục.
“Người Hồ Khế ở Vũ Châu muốn qua sông Quan đánh lén Phủ thành, ngươi mai phục ở đây, còn thực hiện thành công kế hoạch cho nổ sông Quan. Một hòn đá trúng hai con chim nha tiểu tướng quân. Có phải ngươi đã sớm biết người Hồ Khế sẽ đánh lén không?” Hạ Tư Mộ cười nói.
Giờ phút này Đoạn Tư không thể nhìn thấy hồn phách của nàng, càng không thể nghe thấy giọng nàng.
Đương nhiên, hắn cũng không thể thấy thế giới mà nàng trông thấy, không thể thấy gió trắng như tơ nhện hay hồn hoả sáng trưng như thiêu đốt giữa đất trời.
Hạ Tư Mộ đến gần Đoạn Tư, hơi nhón chân nhìn thẳng vào trong mắt hắn.
Đôi mắt hắn sáng ngời mà ngay thẳng, tròng mắt đen thăm thẳm như một tấm gương màu đen. Trong gương không có nàng, không có ánh sáng hồn hoả, chỉ có những ánh lửa từ vụ nổ và quân địch máu thịt mơ hồ.
“Trong mắt người sống, cái chết trông như thế nào vậy?”
Hạ Tư Mộ nhìn vào mắt hắn, dường như muốn nhìn thấy một dáng hình khác của cái chết từ trong đôi mắt hắn.
Đoạn Tư khẽ chớp mắt, hắn chợt người nhẹ, nói: “Hạ Tiểu Tiểu.”