Bạch Nhật Đề Đăng
Chương 15: Sấu mai
Edit: Ys
Quân Hô Lan xem Phủ thành Sóc Châu như cái thùng sắt, vây kín không một kẽ hở — Con sông Quan thông gió duy nhất cũng vì bị cho nổ và thời tiết ấm dần lên mà tan tuyết.
Bàn tay lớn thâu tóm một toà thành nhỏ trong tay, mây đen che kín bầu trời thành trì, cũng giăng kín lòng bá tánh nơi đây.
Lương Châu vốn có điều kiện tốt nhất để vượt sông, thế nhưng hiện giờ Lương Châu đã về lại tay Đại Lương, sông Quan tan băng, qua sông chiến đấu gần như là tử huyệt của người Hồ Khế. Hạ Khánh Sinh trấn giữ ở Lương Châu lại là một tay thuỷ chiến lão luyện, tuyệt không để người Hồ Khế xuống được nước từ khúc sông Lương Châu.
Vũ Châu giờ đã là của người Hồ Khế, chỉ cần người Hồ Khế bước qua Phủ thành Sóc Châu là có thể đến được bờ bên kia một cách dễ dàng.
Nơi này, đối với người Đan Chi mà nói, là cây đinh trong mắt, cái gai trong thịt.
Từ ngày quân Hô Lan đến, lửa đạn chưa dừng một ngày nào, ngoài thành thường có tiếng chém giết rung trời. Bá tánh chỉ có thể trông thấy cổng thành đóng chặt, khói đen mù mịt trên trời cao và những binh lính được vận chuyển từ tường thành xuống.
Trước khi Đạp Bạch quân đặt chân đến Phủ thành, Đoạn Tư đã lệnh cho bọn họ mang đến rất nhiều lương thảo, mũi tên, gỗ đá, dầu sơn*, lúc này đã phát huy công dụng. Quân Đan Chi mỗi lần tấn công đều bị từng đợt mưa tên, cây lăn và đá tảng bức lui. Lợi dụng địa thế của Phủ thành, Đạp Bạch quân thủ vững các cửa khẩu, không cho người Hồ Khế bước qua.
Các bá tánh thấy chiến sự rung rời mấy ngày liền, khói đen cuồn cuộn nhưng không có đại sự gì, thế là vừa nơm nớp lo sợ vừa bắt đầu chuẩn bị ăn tết.
Không sai, phàm nhân trong thế gian này, ăn tết mới là chuyện lớn quan trọng nhất trên đời.
“Tiểu tiểu thư tỷ, chúng ta có cần mua pháo đốt không?” Trầm Anh ôm một cái bình đá, rắc vôi bột lên mặt đất.
Hạ Tư Mộ xoa xoa huyệt thái dương, nói: “Còn đốt pháo? Tiếng pháo ngoài thành nghe còn chưa đủ sao?”
Nàng ngồi xổm trên mặt đất nhìn Trầm Anh rải một vòng tròn trắng méo xẹo ngoài cửa, chỉ vào vòng tròn vôi hỏi: “Đệ muốn làm gì đây?”
“Tiểu tiểu thư tỷ không biết sao? Tỷ mà cũng có việc không biết á!” Trầm Anh kiêu ngạo ưỡn ngực, thuộc làu làu nói: “Lúc ăn tết phải đốt pháo, dán môn thần, dán chữ phúc, vẽ một vòng tròn bằng vôi ngoài cửa để trừ tà và tránh tai hoạ!”
Hạ Tư Mộ nghiêng đầu, cảm thấy thái quá: “Sao loại chuyện này có thể trừ tà?”
“Bởi vì tà ma quỷ quái sợ tiếng pháo nổ, sợ môn thần, sợ màu đỏ, còn sợ vôi nữa! Người xưa nói vậy đó!” Trầm Anh nói như điều hiển nhiên.
Hạ Tư Mộ trầm mặc một lát, nói: “Tỷ vẫn luôn tò mò, cái loại ý tưởng thiên tài này là do ai nghĩ ra?”
Giống như mấy tên tử tù diễu hành trước khi ra pháp trường, nói cái gì mà mười tám năm sau lại là một hảo hán, chỉ là tự huyễn hoặc mà thôi.
Nghe thấy tiếng pháo mặt không hề đổi sắc, có thể vẽ thần giữ cửa thành đồ chơi bằng đường để ăn, không biết màu đỏ trông như thế nào — Hạ Tư Mộ lấy cái bình trong tay Trầm Anh, giúp nó rải vôi trước cửa sổ.
Dạo gần đây Đoạn Tư bận đến nỗi không thấy bóng dáng, thi thoảng nàng có ẩn thân đi xem hắn, không phải đốc chiến thì chính là thương thảo quân vụ, dường như không ngủ nghỉ phút nào. Có lẽ lúc này không phải thời điểm tốt để giao dịch, huồng hồ, nàng còn chưa thăm dò được đáy lòng Đoạn Tư.
Hạ Tư Mộ lẩm bẩm: “Hắn sẽ muốn cái gì đây?”
Phá vỡ vòng vây của Phủ thành? Đuổi quân chi viện Đan Chi? Lấy lại non sông? Trở về triều đình làm nguyên soái, người cầm đầu? Mỗi cái dường như đều là đáp án chính xác.
Nhưng từng cái đều có cảm giác không phải.
Lại chiếu theo quy tắc của nàng, Quỷ giới không thể nhúng tay vào chính sự của nhân gian, nếu nguyện vọng của hắn là những cái đó thì thật sự khó giải quyết đấy.
“Ai muốn cái gì cơ?” Trầm Anh tò mò hỏi.
Hạ Tư Mộ ngước mắt nhìn nó, cười đáp: “Tướng quân ca ca của đệ đấy, đệ cảm thấy hắn sẽ có tâm nguyện gì?”
Trầm Anh suy nghĩ một lát, giơ tám ngón tay ra: “Đệ nghĩ là mỗi bữa cơm có thể ăn tám cái bánh.”
“…”
Dường như còn cảm thấy chưa đủ, Trầm Anh bổ sung thêm: “Đều là nhân thịt.”
“… Nghe không giống nguyện vọng của Đoạn Tư lắm, giống của đệ hơn.”
“Không không không, một bữa đệ chỉ có thể ăn ba cái thôi, tướng quân ca ca lợi hại như vậy, nhất định có thể ăn tám cái.” Trầm Anh xua tay, nghiêm túc phân tích.
“Tỷ nhớ lúc trước đệ còn muốn đi theo Đoạn Tư đánh giặc, bảo vệ quốc gia đấy?” Hạ Tư Mộ nhắc nhở nó.
Trầm Anh chớp chớp đôi mắt, hiển nhiên cũng nhớ tới mấy lời hùng hồn mà nó từng nói, đáp: “Đúng vậy, người Hồ Khế đánh tới, chúng ta sẽ không có bánh ăn. Vì để có thể ăn một bữa tám cái bánh, tướng quân ca ca sẽ đuổi bọn họ đi!”
Hạ Tư Mộ im lặng nhìn nó trong chốc lát, sau đó mới cười cười xoa đầu nó, cảm khái nói: “Đúng là trẻ con.”
“Tiểu tiểu thư tỷ, sao tỷ lại muốn biết tâm nguyện của tướng quân ca ca thế?” Trầm Anh đột nhiên nổi hứng thú, như thể phát hiện ra mỏ vàng mà theo đuôi Hạ Tư Mộ, nàng rải vôi đến đâu, nó liền đuổi theo đến đó.
“Tỷ muốn làm một việc quan trọng với tướng quân ca ca của đệ, biết người biết ta thì mới biết ra giá thế nào được.” Hạ Tư Mộ không chút để ý nói.
Trầm Anh tặc lưỡi cười rộ lên, nó bảo: “Tiểu tiểu thư tỷ, có phải tỷ ngượng ngùng không?”
“Cái gì?”
“Tỷ thích tướng quân ca ca chứ gì! Cho nên tỷ muốn giúp huynh ấy thực hiện tâm nguyện! Lần trước tỷ nói với Mạnh giáo uý, đệ đều nghe thấy hết, tỷ nói tỷ đối với tướng quân ca ca là… Nhất… Nhất kiến chung tình!” Cuối cùng Trầm Anh cũng nghĩ ra câu thành ngữ này.
Hạ Tư Mộ câm nín nhìn Trầm Anh hứng chí bừng bừng, nở nụ cười hiền hoà: “Đúng đúng đúng, hiện giờ xem ra hắn với tỷ thật sự là trời sinh một đôi, đất tạo một cặp.”
Hơn ba trăm năm mới gặp được một người có thể kết chú, không phải là trời đất tác hợp, có một không hai sao.
Không biết vì sao mà Trầm Anh lại vui mừng đến vậy, nhảy lên tại chỗ, bám theo Hạ Tư Mộ chạy tới chạy lui: “Tỷ tỷ quả nhiên là thích tướng quân ca ca! Tỷ đi tìm huynh ấy nhiều chút đi! Lâu rồi huynh ấy chưa tới đây!”
Hạ Tư Mộ cầm vôi bột rải tới rải lui trên mặt đất, xem lời Trầm Anh nói như gió thoảng bên tai.
Trầm Anh lại hồn nhiên không nhận ra, nó nắm ống tay áo của Hạ Tư Mộ nói: “Tiểu tiểu thư tỷ, chúng ta còn có kèn bầu! Tỷ nhất định phải đợi đến lúc lo ma chay cho tướng quân ca ca mới thổi cho huynh ấy nghe sao?”
Hạ Tư Mộ đột nhiên cảm thấy gió có chút biến hoá, nàng ngước mắt lên nhìn, liền bắt gặp ánh mắt của Đoạn Tư ở cổng viện, mà chủ nhân chân chính của toà viện này, Lâm Quân cũng đang đứng bên cạnh hắn.
Đoạn Tư mặc thường phục, đầu cài phát quan, cười rạng rỡ, như thể hắn không phải một vị tướng quân lãnh khốc, mà là một người huynh trưởng đến làm khách ở nhà bên.
Đôi mắt màu đen của hắn chớp chớp, cười để lộ hàm răng trắng tinh: “Lo ma chay cho ta?”
Người này tới thật đúng lúc.
Hạ Tư Mộ chưa từng biết hai chữ xấu hổ viết thế nào, ôm bình mặt không đổi sắc nói: “Tướng quân đại nhân đến đây từ bao giờ?”
“Vừa đến, đại khái là từ lúc trời sinh một đôi, đất tạo một cặp. Quả nhiên là đất tạo một cặp, ngay cả chuyện đưa ta xuống đất cũng an bài xong rồi.” Đoạn Tư cười tủm tỉm châm chọc.
Hạ Tư Mộ hào phóng đáp: “Đấy còn không phải là ta sợ tướng quân đại nhân mà ta yêu thương, lúc lên đường phải chịu uỷ khuất sao.”
“Chờ Phủ thành được giải vây, Tiểu Tiểu cô nương thổi một khúc cho ta nghe, thế nào?”
“Xin lỗi, khúc này của ta chỉ có người lên đường mới nghe được. Người sống nghe thì không may mắn lắm.”
Đoạn Tư cười cười, tầm mắt dời xuống nền đất dưới chân Hạ Tư Mộ. Trầm Anh buồn bực cúi đầu theo tầm mắt của Đoạn Tư, lập tức kinh ngạc la lên một tiếng.
Không biết từ khi nào vôi trên mặt đất đã bị rải thành một bức mai hoa đồ, ba nhánh cây thon và năm sáu đoá hàn mai sắc bén như muốn bật lên khỏi mặt đất.
Cha của Hạ Tư Mộ là một con quỷ học đòi văn vẻ, từ nhỏ đã cầm tay dạy nàng vẽ tranh, nàng không biết màu sắc, nhưng tranh thuỷ mặc lại vẽ khá tốt.
“Tiểu tiểu thư tỷ, tỷ còn biết vẽ tranh nữa!” Trầm Anh tán thưởng.
Hạ Tư Mộ vỗ vỗ tay phủi bột vôi, nói: “Thật ra vôi không có tác dụng gì, vẽ một bức tranh đẹp, nếu người đến là thứ tà ma phong nhã, có lẽ không nỡ bước qua đâu.”
Dừng một chút, nàng lại nói với Lâm Quân: “Ông chủ Lâm sẽ không ghét bỏ ta làm dơ gạch của ngươi chứ?”
Lâm Quân vội vàng xua tay nói sẽ không, kinh ngạc cảm thán nói: “Tài nghệ vẽ tranh của ngươi trông như danh gia đã luyện vài thập niên vậy.”
… Nói thế cũng không sai, là luyện mấy trăm năm.
Hạ Tư Mộ cảm thấy mỗi lần Đoạn Tư tới gặp nàng, dường như đều là vì tìm kiếm cảm hứng cho những ý tưởng tồi tệ của mình, lần này cũng không ngoại lệ.
Nàng đi xuyên qua bức tường thành dày nặng lên Ủng thành*, ngoài cửa Ủng thành chính là đại doanh của người Hồ Khế. Ủng thành được xây dựng rất cẩn thận, nhỏ hẹp nhưng bảo vệ được cổng thành chính, nếu quân địch đánh vào trong Ủng thành thì có thể hạ cửa, kết hợp với cổng thành, bắt quân địch như ba ba trong rọ.
Vì để giành được chiến thắng trong cuộc chiến, phàm nhân đúng là phí tâm vắt óc bày mưu tính kế. Nhưng tường thành này vốn là do người Hán tiền triều xây dựng, sau dùng để bảo vệ người Hồ Khế, nay lại lần nữa trở về hay người Hán.
Chuyển đổi tấn công sang phòng thủ, gậy ông đập lưng ông.
“Ta nhớ có một vị cổ nhân từng kể một câu chuyện ngụ ngôn xưa.*” Hạ Tư Mộ đi dọc theo bậc thang Ủng thành lên trên, nói: “Ngày trước, trên chiếc râu bên trái và chiếc râu bên phải của con ốc sên có hai quốc gia, vì tranh giành một vùng đất nhỏ bé mà chinh phạt lẫn nhau khiến hàng vạn thi thể ngã xuống.”
Đoạn Tư đi phía trước dẫn đường cho nàng, giờ phút này lại quay đầu lại nhìn nàng,
ở nơi ánh sáng mập mờ, không nhìn rõ biểu tình trên mặt: “Vị cổ nhân này là Trang Tử. Trang Tử kể rằng, quốc gia nằm bên trái râu ốc là Giác Thị, quốc gia nằm bên phải râu ốc là Man thị. Khi sống chung thường xuyên chiến đấu giành đất đai, hàng vạn xác chết ngã xuống, nắm quyền được năm ngày rồi lại đổi chủ.”
Hạ Tư Mộ nghĩ trí nhớ của vị tướng quân này thật tốt, có chỗ giống với lời đồn về Đoạn Tư, khi còn bé chỉ cần nhìn qua một lần là không bao giờ quên.
Bọn họ đi qua cầu thang thiếu sáng, bước lên tường thành Ủng thành, Đoạn Tư im lặng một lúc, hắn chậm rãi nói: “Chúng ta cũng như thế. Cuộc đời này, thật là ngắn ngủi, nhỏ bé hèn mọn đến đáng thương, đúng không.”
Khi nói đến chuyện bi thương này, Đoạn Tư vẫn cười, ánh mắt sáng ngời. Thoạt nhìn chẳng có chút hèn mọn nào cả, chứ đừng nói là đáng thương.
“Sao ngươi lại thích cười như vậy?” Hạ Tư Mộ nhịn không được hỏi.
“Ta trời sinh đã như vậy.”
Cuối cùng Hạ Tư Mộ cũng bước lên tường thành, nàng nhìn khung cảnh hoang tàn xung quanh Ủng thành, đầu tường chi chít những vệt cháy đen do chiến tranh lưu lại, binh lính tới lui cực kỳ khẩn trương, mùi máu tươi và đồ vật bị thiêu cháy nồng nặc nơi đầu tường.
Xem ra mấy lần trước bọn họ đánh lui quân địch, tình hình chiến đấu thập phần khốc liệt. Đại doanh đen nghìn nghịt bên ngoài thành, nhìn không thấy điểm cuối, hai mươi vạn người như hổ rình mồi nhìn chằm chằm vào toà thành, tựa như một con báo đen nằm phủ phục, chỉ đợi thời cơ mà lao đến, xé xác toà thành này ra.
Ấy vậy mà người trong thành vẫn hồn nhiên không biết gì, lại còn chuẩn bị ăn tết.
Hạ Tư Mộ xoa xoa huyệt thái dương: “Người xưa nói trong lòng dậy sóng mà ngoài mặt vẫn tĩnh như mặt hồ, hoá ra là đang nói tướng quân.”
Đoạn Tư cong cong mi mắt: “Thật vinh hạnh.”
Không bao lâu nữa người Hồ Khế sẽ tiến hành đợt tấn công tiếp theo, bây giờ Đoạn Tư phải tìm cách cầm chân bọn họ ở ngoài thành một lần nữa.
“Hôm nay ta nhìn, cảm thấy vôi bột thật không tồi, vừa hay cơn mưa thiêu đốt chính là hình phạt nặng thứ hai trong Thương Ngôn Kinh. Sắp tới liệu có trận mưa to gió lớn nào không?”
Hiển nhiên là hắn dùng 《 Thương Ngôn Kinh 》đến xuất thần nhập hoá.
Hạ Tư Mộ nheo mắt, ngoài cười nhưng trong không cười nói: “Ta không phải phong sư vũ bá, chẳng lẽ ngươi tưởng muốn thời tiết nào là có thể tạo ra thời tiết đó? Thời gian sắp tới tiết trời sáng sủa khô ráo, cũng sẽ không có mưa.”
Đoạn Tư lắc đầu, thở dài: “Đáng tiếc.”
“Ngươi đường đường là đại tướng quân, sao lại muốn dùng chút đường ngang ngõ tắt này?”
“Binh pháp, cũng là thủ đoạn. Bất ngờ và trực diện phải bổ trợ cho nhau thì mới có thể giành chiến thắng. Đan Chi có hai mươi vạn đại quân, ta chỉ có năm vạn, nếu thật sự đối mặt chính diện thì ta chỉ có con đường chết.”
Đoạn Tư vừa dứt lời liền nghe dưới tường thành có người gân cổ hét to.
“Đoạn Thuấn Tức, ngươi là tên mặt trắng co đầu rụt cổ, ngươi sợ ông nội Đan Chi ngươi nên mới trốn ở trong thành không ra khỏi cửa chứ gì. Có bản lĩnh thì ra khỏi thành đánh một trận với chúng ta xem! Xem ông nội ngươi có đánh ngươi đầu nở đầy hoa, kêu cha gọi mẹ hay không!”
“Tới đây, ra khỏi thành đánh một trận!”
Giọng nói tục tằng bừa bãi, ý cười nhạo vô cùng rõ ràng, doanh trại của địch ở dưới thành cũng phối hợp phát ra tiếng cười nhạo, tiếng chửi bậy vọng đến đầu thành, ồn ào một trận.
Đoạn Tư cũng không xuống dưới xem, thoải mái giải thích với Hạ Tư Mộ: “Đã hò hét như vậy mấy ngày rồi.”
“Bọn họ vũ nhục ngươi, muốn khích ngươi ra khỏi thành nghênh chiến.”
“Bọn họ đang vũ nhục ta sao? Bọn họ nói ta là tên mặt trắng, dưới cách nhìn khác không phải là đang khen ta anh tuấn hay sao?” Đoạn Tư vỗ ngực, cười nói: “Ta nhận tấm chân tình này.”
Hạ Tư Mộ im lặng chớp mắt một cái, vỗ tay nói: “Tướng quân đại nhân đúng là lòng dạ rộng lượng, khiến người bội phục.”
________Dầu sơn: Dầu được chiết từ cây dầu sơn (Cây trẩu).Điển cố về con ốc sên, nhằm ám chỉ tầm nhìn hạn hẹp, vì một chuyện nhỏ mà gây ra hậu quả lớn.Ủng thành: Thành trì có dạng nửa hình tròn hoặc hình vuông bên ngoài cổng thành, nhằm bảo vệ chổng thành chính bên trong.
Quân Hô Lan xem Phủ thành Sóc Châu như cái thùng sắt, vây kín không một kẽ hở — Con sông Quan thông gió duy nhất cũng vì bị cho nổ và thời tiết ấm dần lên mà tan tuyết.
Bàn tay lớn thâu tóm một toà thành nhỏ trong tay, mây đen che kín bầu trời thành trì, cũng giăng kín lòng bá tánh nơi đây.
Lương Châu vốn có điều kiện tốt nhất để vượt sông, thế nhưng hiện giờ Lương Châu đã về lại tay Đại Lương, sông Quan tan băng, qua sông chiến đấu gần như là tử huyệt của người Hồ Khế. Hạ Khánh Sinh trấn giữ ở Lương Châu lại là một tay thuỷ chiến lão luyện, tuyệt không để người Hồ Khế xuống được nước từ khúc sông Lương Châu.
Vũ Châu giờ đã là của người Hồ Khế, chỉ cần người Hồ Khế bước qua Phủ thành Sóc Châu là có thể đến được bờ bên kia một cách dễ dàng.
Nơi này, đối với người Đan Chi mà nói, là cây đinh trong mắt, cái gai trong thịt.
Từ ngày quân Hô Lan đến, lửa đạn chưa dừng một ngày nào, ngoài thành thường có tiếng chém giết rung trời. Bá tánh chỉ có thể trông thấy cổng thành đóng chặt, khói đen mù mịt trên trời cao và những binh lính được vận chuyển từ tường thành xuống.
Trước khi Đạp Bạch quân đặt chân đến Phủ thành, Đoạn Tư đã lệnh cho bọn họ mang đến rất nhiều lương thảo, mũi tên, gỗ đá, dầu sơn*, lúc này đã phát huy công dụng. Quân Đan Chi mỗi lần tấn công đều bị từng đợt mưa tên, cây lăn và đá tảng bức lui. Lợi dụng địa thế của Phủ thành, Đạp Bạch quân thủ vững các cửa khẩu, không cho người Hồ Khế bước qua.
Các bá tánh thấy chiến sự rung rời mấy ngày liền, khói đen cuồn cuộn nhưng không có đại sự gì, thế là vừa nơm nớp lo sợ vừa bắt đầu chuẩn bị ăn tết.
Không sai, phàm nhân trong thế gian này, ăn tết mới là chuyện lớn quan trọng nhất trên đời.
“Tiểu tiểu thư tỷ, chúng ta có cần mua pháo đốt không?” Trầm Anh ôm một cái bình đá, rắc vôi bột lên mặt đất.
Hạ Tư Mộ xoa xoa huyệt thái dương, nói: “Còn đốt pháo? Tiếng pháo ngoài thành nghe còn chưa đủ sao?”
Nàng ngồi xổm trên mặt đất nhìn Trầm Anh rải một vòng tròn trắng méo xẹo ngoài cửa, chỉ vào vòng tròn vôi hỏi: “Đệ muốn làm gì đây?”
“Tiểu tiểu thư tỷ không biết sao? Tỷ mà cũng có việc không biết á!” Trầm Anh kiêu ngạo ưỡn ngực, thuộc làu làu nói: “Lúc ăn tết phải đốt pháo, dán môn thần, dán chữ phúc, vẽ một vòng tròn bằng vôi ngoài cửa để trừ tà và tránh tai hoạ!”
Hạ Tư Mộ nghiêng đầu, cảm thấy thái quá: “Sao loại chuyện này có thể trừ tà?”
“Bởi vì tà ma quỷ quái sợ tiếng pháo nổ, sợ môn thần, sợ màu đỏ, còn sợ vôi nữa! Người xưa nói vậy đó!” Trầm Anh nói như điều hiển nhiên.
Hạ Tư Mộ trầm mặc một lát, nói: “Tỷ vẫn luôn tò mò, cái loại ý tưởng thiên tài này là do ai nghĩ ra?”
Giống như mấy tên tử tù diễu hành trước khi ra pháp trường, nói cái gì mà mười tám năm sau lại là một hảo hán, chỉ là tự huyễn hoặc mà thôi.
Nghe thấy tiếng pháo mặt không hề đổi sắc, có thể vẽ thần giữ cửa thành đồ chơi bằng đường để ăn, không biết màu đỏ trông như thế nào — Hạ Tư Mộ lấy cái bình trong tay Trầm Anh, giúp nó rải vôi trước cửa sổ.
Dạo gần đây Đoạn Tư bận đến nỗi không thấy bóng dáng, thi thoảng nàng có ẩn thân đi xem hắn, không phải đốc chiến thì chính là thương thảo quân vụ, dường như không ngủ nghỉ phút nào. Có lẽ lúc này không phải thời điểm tốt để giao dịch, huồng hồ, nàng còn chưa thăm dò được đáy lòng Đoạn Tư.
Hạ Tư Mộ lẩm bẩm: “Hắn sẽ muốn cái gì đây?”
Phá vỡ vòng vây của Phủ thành? Đuổi quân chi viện Đan Chi? Lấy lại non sông? Trở về triều đình làm nguyên soái, người cầm đầu? Mỗi cái dường như đều là đáp án chính xác.
Nhưng từng cái đều có cảm giác không phải.
Lại chiếu theo quy tắc của nàng, Quỷ giới không thể nhúng tay vào chính sự của nhân gian, nếu nguyện vọng của hắn là những cái đó thì thật sự khó giải quyết đấy.
“Ai muốn cái gì cơ?” Trầm Anh tò mò hỏi.
Hạ Tư Mộ ngước mắt nhìn nó, cười đáp: “Tướng quân ca ca của đệ đấy, đệ cảm thấy hắn sẽ có tâm nguyện gì?”
Trầm Anh suy nghĩ một lát, giơ tám ngón tay ra: “Đệ nghĩ là mỗi bữa cơm có thể ăn tám cái bánh.”
“…”
Dường như còn cảm thấy chưa đủ, Trầm Anh bổ sung thêm: “Đều là nhân thịt.”
“… Nghe không giống nguyện vọng của Đoạn Tư lắm, giống của đệ hơn.”
“Không không không, một bữa đệ chỉ có thể ăn ba cái thôi, tướng quân ca ca lợi hại như vậy, nhất định có thể ăn tám cái.” Trầm Anh xua tay, nghiêm túc phân tích.
“Tỷ nhớ lúc trước đệ còn muốn đi theo Đoạn Tư đánh giặc, bảo vệ quốc gia đấy?” Hạ Tư Mộ nhắc nhở nó.
Trầm Anh chớp chớp đôi mắt, hiển nhiên cũng nhớ tới mấy lời hùng hồn mà nó từng nói, đáp: “Đúng vậy, người Hồ Khế đánh tới, chúng ta sẽ không có bánh ăn. Vì để có thể ăn một bữa tám cái bánh, tướng quân ca ca sẽ đuổi bọn họ đi!”
Hạ Tư Mộ im lặng nhìn nó trong chốc lát, sau đó mới cười cười xoa đầu nó, cảm khái nói: “Đúng là trẻ con.”
“Tiểu tiểu thư tỷ, sao tỷ lại muốn biết tâm nguyện của tướng quân ca ca thế?” Trầm Anh đột nhiên nổi hứng thú, như thể phát hiện ra mỏ vàng mà theo đuôi Hạ Tư Mộ, nàng rải vôi đến đâu, nó liền đuổi theo đến đó.
“Tỷ muốn làm một việc quan trọng với tướng quân ca ca của đệ, biết người biết ta thì mới biết ra giá thế nào được.” Hạ Tư Mộ không chút để ý nói.
Trầm Anh tặc lưỡi cười rộ lên, nó bảo: “Tiểu tiểu thư tỷ, có phải tỷ ngượng ngùng không?”
“Cái gì?”
“Tỷ thích tướng quân ca ca chứ gì! Cho nên tỷ muốn giúp huynh ấy thực hiện tâm nguyện! Lần trước tỷ nói với Mạnh giáo uý, đệ đều nghe thấy hết, tỷ nói tỷ đối với tướng quân ca ca là… Nhất… Nhất kiến chung tình!” Cuối cùng Trầm Anh cũng nghĩ ra câu thành ngữ này.
Hạ Tư Mộ câm nín nhìn Trầm Anh hứng chí bừng bừng, nở nụ cười hiền hoà: “Đúng đúng đúng, hiện giờ xem ra hắn với tỷ thật sự là trời sinh một đôi, đất tạo một cặp.”
Hơn ba trăm năm mới gặp được một người có thể kết chú, không phải là trời đất tác hợp, có một không hai sao.
Không biết vì sao mà Trầm Anh lại vui mừng đến vậy, nhảy lên tại chỗ, bám theo Hạ Tư Mộ chạy tới chạy lui: “Tỷ tỷ quả nhiên là thích tướng quân ca ca! Tỷ đi tìm huynh ấy nhiều chút đi! Lâu rồi huynh ấy chưa tới đây!”
Hạ Tư Mộ cầm vôi bột rải tới rải lui trên mặt đất, xem lời Trầm Anh nói như gió thoảng bên tai.
Trầm Anh lại hồn nhiên không nhận ra, nó nắm ống tay áo của Hạ Tư Mộ nói: “Tiểu tiểu thư tỷ, chúng ta còn có kèn bầu! Tỷ nhất định phải đợi đến lúc lo ma chay cho tướng quân ca ca mới thổi cho huynh ấy nghe sao?”
Hạ Tư Mộ đột nhiên cảm thấy gió có chút biến hoá, nàng ngước mắt lên nhìn, liền bắt gặp ánh mắt của Đoạn Tư ở cổng viện, mà chủ nhân chân chính của toà viện này, Lâm Quân cũng đang đứng bên cạnh hắn.
Đoạn Tư mặc thường phục, đầu cài phát quan, cười rạng rỡ, như thể hắn không phải một vị tướng quân lãnh khốc, mà là một người huynh trưởng đến làm khách ở nhà bên.
Đôi mắt màu đen của hắn chớp chớp, cười để lộ hàm răng trắng tinh: “Lo ma chay cho ta?”
Người này tới thật đúng lúc.
Hạ Tư Mộ chưa từng biết hai chữ xấu hổ viết thế nào, ôm bình mặt không đổi sắc nói: “Tướng quân đại nhân đến đây từ bao giờ?”
“Vừa đến, đại khái là từ lúc trời sinh một đôi, đất tạo một cặp. Quả nhiên là đất tạo một cặp, ngay cả chuyện đưa ta xuống đất cũng an bài xong rồi.” Đoạn Tư cười tủm tỉm châm chọc.
Hạ Tư Mộ hào phóng đáp: “Đấy còn không phải là ta sợ tướng quân đại nhân mà ta yêu thương, lúc lên đường phải chịu uỷ khuất sao.”
“Chờ Phủ thành được giải vây, Tiểu Tiểu cô nương thổi một khúc cho ta nghe, thế nào?”
“Xin lỗi, khúc này của ta chỉ có người lên đường mới nghe được. Người sống nghe thì không may mắn lắm.”
Đoạn Tư cười cười, tầm mắt dời xuống nền đất dưới chân Hạ Tư Mộ. Trầm Anh buồn bực cúi đầu theo tầm mắt của Đoạn Tư, lập tức kinh ngạc la lên một tiếng.
Không biết từ khi nào vôi trên mặt đất đã bị rải thành một bức mai hoa đồ, ba nhánh cây thon và năm sáu đoá hàn mai sắc bén như muốn bật lên khỏi mặt đất.
Cha của Hạ Tư Mộ là một con quỷ học đòi văn vẻ, từ nhỏ đã cầm tay dạy nàng vẽ tranh, nàng không biết màu sắc, nhưng tranh thuỷ mặc lại vẽ khá tốt.
“Tiểu tiểu thư tỷ, tỷ còn biết vẽ tranh nữa!” Trầm Anh tán thưởng.
Hạ Tư Mộ vỗ vỗ tay phủi bột vôi, nói: “Thật ra vôi không có tác dụng gì, vẽ một bức tranh đẹp, nếu người đến là thứ tà ma phong nhã, có lẽ không nỡ bước qua đâu.”
Dừng một chút, nàng lại nói với Lâm Quân: “Ông chủ Lâm sẽ không ghét bỏ ta làm dơ gạch của ngươi chứ?”
Lâm Quân vội vàng xua tay nói sẽ không, kinh ngạc cảm thán nói: “Tài nghệ vẽ tranh của ngươi trông như danh gia đã luyện vài thập niên vậy.”
… Nói thế cũng không sai, là luyện mấy trăm năm.
Hạ Tư Mộ cảm thấy mỗi lần Đoạn Tư tới gặp nàng, dường như đều là vì tìm kiếm cảm hứng cho những ý tưởng tồi tệ của mình, lần này cũng không ngoại lệ.
Nàng đi xuyên qua bức tường thành dày nặng lên Ủng thành*, ngoài cửa Ủng thành chính là đại doanh của người Hồ Khế. Ủng thành được xây dựng rất cẩn thận, nhỏ hẹp nhưng bảo vệ được cổng thành chính, nếu quân địch đánh vào trong Ủng thành thì có thể hạ cửa, kết hợp với cổng thành, bắt quân địch như ba ba trong rọ.
Vì để giành được chiến thắng trong cuộc chiến, phàm nhân đúng là phí tâm vắt óc bày mưu tính kế. Nhưng tường thành này vốn là do người Hán tiền triều xây dựng, sau dùng để bảo vệ người Hồ Khế, nay lại lần nữa trở về hay người Hán.
Chuyển đổi tấn công sang phòng thủ, gậy ông đập lưng ông.
“Ta nhớ có một vị cổ nhân từng kể một câu chuyện ngụ ngôn xưa.*” Hạ Tư Mộ đi dọc theo bậc thang Ủng thành lên trên, nói: “Ngày trước, trên chiếc râu bên trái và chiếc râu bên phải của con ốc sên có hai quốc gia, vì tranh giành một vùng đất nhỏ bé mà chinh phạt lẫn nhau khiến hàng vạn thi thể ngã xuống.”
Đoạn Tư đi phía trước dẫn đường cho nàng, giờ phút này lại quay đầu lại nhìn nàng,
ở nơi ánh sáng mập mờ, không nhìn rõ biểu tình trên mặt: “Vị cổ nhân này là Trang Tử. Trang Tử kể rằng, quốc gia nằm bên trái râu ốc là Giác Thị, quốc gia nằm bên phải râu ốc là Man thị. Khi sống chung thường xuyên chiến đấu giành đất đai, hàng vạn xác chết ngã xuống, nắm quyền được năm ngày rồi lại đổi chủ.”
Hạ Tư Mộ nghĩ trí nhớ của vị tướng quân này thật tốt, có chỗ giống với lời đồn về Đoạn Tư, khi còn bé chỉ cần nhìn qua một lần là không bao giờ quên.
Bọn họ đi qua cầu thang thiếu sáng, bước lên tường thành Ủng thành, Đoạn Tư im lặng một lúc, hắn chậm rãi nói: “Chúng ta cũng như thế. Cuộc đời này, thật là ngắn ngủi, nhỏ bé hèn mọn đến đáng thương, đúng không.”
Khi nói đến chuyện bi thương này, Đoạn Tư vẫn cười, ánh mắt sáng ngời. Thoạt nhìn chẳng có chút hèn mọn nào cả, chứ đừng nói là đáng thương.
“Sao ngươi lại thích cười như vậy?” Hạ Tư Mộ nhịn không được hỏi.
“Ta trời sinh đã như vậy.”
Cuối cùng Hạ Tư Mộ cũng bước lên tường thành, nàng nhìn khung cảnh hoang tàn xung quanh Ủng thành, đầu tường chi chít những vệt cháy đen do chiến tranh lưu lại, binh lính tới lui cực kỳ khẩn trương, mùi máu tươi và đồ vật bị thiêu cháy nồng nặc nơi đầu tường.
Xem ra mấy lần trước bọn họ đánh lui quân địch, tình hình chiến đấu thập phần khốc liệt. Đại doanh đen nghìn nghịt bên ngoài thành, nhìn không thấy điểm cuối, hai mươi vạn người như hổ rình mồi nhìn chằm chằm vào toà thành, tựa như một con báo đen nằm phủ phục, chỉ đợi thời cơ mà lao đến, xé xác toà thành này ra.
Ấy vậy mà người trong thành vẫn hồn nhiên không biết gì, lại còn chuẩn bị ăn tết.
Hạ Tư Mộ xoa xoa huyệt thái dương: “Người xưa nói trong lòng dậy sóng mà ngoài mặt vẫn tĩnh như mặt hồ, hoá ra là đang nói tướng quân.”
Đoạn Tư cong cong mi mắt: “Thật vinh hạnh.”
Không bao lâu nữa người Hồ Khế sẽ tiến hành đợt tấn công tiếp theo, bây giờ Đoạn Tư phải tìm cách cầm chân bọn họ ở ngoài thành một lần nữa.
“Hôm nay ta nhìn, cảm thấy vôi bột thật không tồi, vừa hay cơn mưa thiêu đốt chính là hình phạt nặng thứ hai trong Thương Ngôn Kinh. Sắp tới liệu có trận mưa to gió lớn nào không?”
Hiển nhiên là hắn dùng 《 Thương Ngôn Kinh 》đến xuất thần nhập hoá.
Hạ Tư Mộ nheo mắt, ngoài cười nhưng trong không cười nói: “Ta không phải phong sư vũ bá, chẳng lẽ ngươi tưởng muốn thời tiết nào là có thể tạo ra thời tiết đó? Thời gian sắp tới tiết trời sáng sủa khô ráo, cũng sẽ không có mưa.”
Đoạn Tư lắc đầu, thở dài: “Đáng tiếc.”
“Ngươi đường đường là đại tướng quân, sao lại muốn dùng chút đường ngang ngõ tắt này?”
“Binh pháp, cũng là thủ đoạn. Bất ngờ và trực diện phải bổ trợ cho nhau thì mới có thể giành chiến thắng. Đan Chi có hai mươi vạn đại quân, ta chỉ có năm vạn, nếu thật sự đối mặt chính diện thì ta chỉ có con đường chết.”
Đoạn Tư vừa dứt lời liền nghe dưới tường thành có người gân cổ hét to.
“Đoạn Thuấn Tức, ngươi là tên mặt trắng co đầu rụt cổ, ngươi sợ ông nội Đan Chi ngươi nên mới trốn ở trong thành không ra khỏi cửa chứ gì. Có bản lĩnh thì ra khỏi thành đánh một trận với chúng ta xem! Xem ông nội ngươi có đánh ngươi đầu nở đầy hoa, kêu cha gọi mẹ hay không!”
“Tới đây, ra khỏi thành đánh một trận!”
Giọng nói tục tằng bừa bãi, ý cười nhạo vô cùng rõ ràng, doanh trại của địch ở dưới thành cũng phối hợp phát ra tiếng cười nhạo, tiếng chửi bậy vọng đến đầu thành, ồn ào một trận.
Đoạn Tư cũng không xuống dưới xem, thoải mái giải thích với Hạ Tư Mộ: “Đã hò hét như vậy mấy ngày rồi.”
“Bọn họ vũ nhục ngươi, muốn khích ngươi ra khỏi thành nghênh chiến.”
“Bọn họ đang vũ nhục ta sao? Bọn họ nói ta là tên mặt trắng, dưới cách nhìn khác không phải là đang khen ta anh tuấn hay sao?” Đoạn Tư vỗ ngực, cười nói: “Ta nhận tấm chân tình này.”
Hạ Tư Mộ im lặng chớp mắt một cái, vỗ tay nói: “Tướng quân đại nhân đúng là lòng dạ rộng lượng, khiến người bội phục.”
________Dầu sơn: Dầu được chiết từ cây dầu sơn (Cây trẩu).Điển cố về con ốc sên, nhằm ám chỉ tầm nhìn hạn hẹp, vì một chuyện nhỏ mà gây ra hậu quả lớn.Ủng thành: Thành trì có dạng nửa hình tròn hoặc hình vuông bên ngoài cổng thành, nhằm bảo vệ chổng thành chính bên trong.