Thẩm Cô Nương Truy Thê Công Lược
Chương 30: Âm dương hồi tố (*)
(*): Đi ngược dòng âm dương.
Quyển sách cổ ố vàng, từng trang sách được lật mở, bày ra trước mắt Trì Hành và Thanh Hòa là một câu chuyện rất dài.
Không thể nói là thê lương mà đẹp đẽ, chỉ có thể gọi là bi ai và phẫn uất.
Một câu chuyện tình bi ai.
Ba trăm năm trước, người thừa kế xuất chúng của dược cốc lần đầu tiên ra khỏi thung lũng, trở thành tiểu tùy tùng của Liễu gia đại tiểu thư.
Liễu Nghê Thường, người con gái với nhan sắc khuynh đảo thiên hạ, xuất thân từ gia tộc võ lâm nhưng không hề kiêu căng tự mãn vì thân phận nữ nhi của minh chủ.
Nàng là người rộng lượng, luôn nhã nhặn, lễ độ với người khác, không coi thường những người yếu thế hơn mình, có trái tim nhân hậu, dần dần trong giang hồ nàng có một biệt danh nổi tiếng——Nghê Thường tiên tử
Bất cứ ai từng nhìn thấy Nghê Thường tiên tử, bất kể nam hay nữ đều bị mê hoặc bởi vẻ ngoài hoàn hảo hoặc bị thu hút bởi tính tình như nước của nàng.
Từng có một câu nói thế này: Ngươi có thể thoát khỏi sự truy đuổi của Võ lâm minh chủ, nhưng không thể thoát khỏi ánh mắt của Nghê Thường tiên tử.
Mỹ nhân quan, anh hùng trủng [1], chỉ cần nàng nhìn ngươi một cái, ngươi sẽ có thể vì nàng mà chết.
[1]: Ải mỹ nhân là mồ chôn anh hùng.
Truyền nhân của dược cốc chỉ mới mười lăm tuổi, tâm trong sáng như ngọc lưu ly, luôn mang lòng từ bi, không biết lòng người hiểm ác.
Ngay lúc ngã xuống Đoạn Kiều, được Liễu Nghê Thường hạ mình đỡ dậy, bên tai vang lên một giọng nói dịu dàng: “Ngươi có nguyện ý luôn bên cạnh bầu bạn với ta không?”
Ninh Tự đã trả lời thế nào?
Nàng ngơ ngác nhìn vị nữ tử mặc bạch y tựa như tiên nữ, mặt đỏ bừng: “Nguyện, nguyện ý!”
Một lần gặp gỡ Liễu Nghê Thường, Ninh Tự bằng lòng làm tùy tùng của nàng trong suốt năm năm.
Đại tiểu thư đối xử với nàng vô cùng ân cần, quan tâm chu đáo.
Năm năm bốn tháng, từ xa lạ đến quen thuộc, cả hai đều buông thả tình ý, để cho cảm tình phát triển đến mức không thể quay đầu lại.
Ninh Tự yêu nàng.
Liễu Nghê Thường cũng thành công khiến nàng phải lòng mình.
Cho đến một ngày, trang chủ của Thí Kiếm sơn trang tới cầu hôn, Liễu Nghê Thường tìm đến Ninh Tự, trực tiếp nói với nàng: Ta không muốn lấy chồng, đưa ta đi đi.
Ninh Tự vui mừng như điên, đêm hôm khuya khoắt bắt cóc người đi, đưa đến dược cốc như chốn đào nguyên tiên cảnh.
Khi đó dược cốc còn chưa bị người ngoài phá hủy, nói đây là tiên cảnh chốn nhân gian cũng không quá lời.
Vừa vào cốc, nhờ vào tính tình hiền lành và ngoại hình xuất chúng mà Liễu Nghê Thường đã thành công chiếm được cảm tình của người trong cốc.
Hai người sắp sửa kết hôn, nàng ngày ngày nài nỉ Ninh Tự dẫn nàng đi du ngoạn những cảnh đẹp núi non hùng vĩ gần dược cốc, âm thầm vẽ bản đồ, dùng phương pháp đặc biệt để đưa bản đồ ra ngoài, đưa đến tay cha ruột là Võ lâm minh chủ.
Chẳng bao lâu sau, dược cốc bị bao vây.
Ngày hôm đó, Ninh Tự mất đi nhà cửa, mất đi những trưởng lão đã nuôi nấng nàng, không còn người thân cũng không còn người yêu.
Dựa vào lần tính kế đáng hổ thẹn này, Võ lâm minh chủ đã thu được tài nguyên mà dược cốc tích lũy trong hàng trăm năm, Liễu minh chủ uy phong lừng lẫy, võ công tiến bộ vượt bậc.
Ông cũng được nhiều người kính trọng vì bản tính thích làm việc thiện, thường xuyên sử dụng đan dược để cứu người.
Liễu Nghê Thường chứng kiến ”cái chết” của Ninh Tự, sau khi về nhà đã lâm bệnh nặng, nét tươi tắn ngày nào không còn nữa nhưng nhan sắc lại càng thêm rạng rỡ hơn xưa.
Tựa như con cưng của trời, dù chỉ còn thoi thóp cũng khiến vô số người say đắm.
Để cứu mạng nàng mà sẵn sàng từ bỏ mạng sống của mình.
Nàng sắp chết vì bệnh tật mà vẫn có người điên cuồng muốn cưới nàng vào cửa.
Bốn năm sau, Võ lâm minh chủ cuối cùng đã chọn liên hôn với Thí Kiếm sơn trang từ trong đám người theo đuổi.
Ngày thành hôn, tuyết rơi dày đặc.
Giữa tiếng kèn trống rộn rã, Ninh Tự từ trên trời giáng xuống, lướt qua màn tuyết trắng xóa.
Một kiếm giết chết Liễu minh chủ, đồng thời một kiếm chém đầu của trang chủ Thí Kiếm sơn trang, ánh mắt tàn nhẫn, lạnh lùng hơn băng tuyết.
Sau khi đại khai sát giới, báo thù rửa hận, nàng đã bắt đi Liễu Nghê Thường đang ngồi trong hỉ kiệu, hơi thở nàng lúc này thoi thóp, màu môi trắng bệch.
Nhìn thấy cha ruột của mình nằm chết trên vũng máu, Liễu Nghê Thường nép vào trong ngực nàng, mỉm cười nhẹ nhõm, nói lời cảm ơn với tùy tùng ngốc trước đây của nàng.
Nàng muốn Liễu Cảnh Thăng chết hơn bất cứ ai.
Nàng cười rộ lên cũng đẹp hơn bất kỳ ai khác.
Nhưng nàng sắp chết.
Nàng cảm thấy may mắn vì mình sắp chết.
Không cần phải mang theo một thân bệnh tật bước vào nấm mồ của người xa lạ, không cần phải tiếp tục làm con rối chịu sự điều khiển của người khác, không cần phải làm những việc mình không thích.
Nàng cười rất vui vẻ, nụ cười rạng rỡ và chân thành hơn bất kỳ nụ cười nào mà Ninh Tự từng thấy trước đây.
Đáng tiếc, nàng vẫn chưa chết được.
Ninh Tự đã cứu nàng.
Đây là khởi đầu cho một giai đoạn khác trong cuộc đời nàng, đầy ngọt ngào và cay đắng.
Liễu Nghê Thường lại được đưa vào dược cốc.
“Ta đã bào chế một loại thuốc độc cho ngươi, đại tiểu thư có muốn uống nó không?”
Khi nói những lời này, Ninh Tự đeo mặt nạ bạc che nửa khuôn mặt, giọng điệu ôn hòa, quen thuộc như Liễu Nghê Thường đã từng nghe trong suốt những năm qua.
“Ta muốn.” Đại tiểu thư từ trên giường đá bò dậy, lấy thuốc độc làm thuốc giải.
Ninh Tự là thần đồng hàng trăm năm chưa từng có ở dược cốc, nhưng vị thần đồng chưa từng có này lại mang đến tai họa cho dược cốc.
Nàng cả tin, hết lòng vì người khác, nhưng thực tế tàn nhẫn đã giáng cho nàng một đòn nặng nề.
Nặng nề đến mức Liễu Nghê Thường mỗi ngày đều phải chịu khổ sở vì hàn độc, nặng nề đến mức phải nhìn nàng sống không bằng chết, hối hận trong lòng mới có thể vơi đi phần nào.
Khi ở trong dược cốc, cuộc sống của họ không khác gì bốn năm trước. Nàng vì nàng ấy mà đánh đàn khiêu vũ, nàng ấy vì nàng mà múa kiếm, thưởng hoa.
Nếu phải nói thì điểm khác biệt duy nhất chính là nàng không còn cảm thấy thương xót cho nàng ấy nữa.
Ninh Tự lạnh lùng nhìn Liễu Nghê Thường bị dày vò mười ba năm.
Mười ba năm sau, vào một buổi tối nọ, nàng bước ra từ phòng luyện thuốc, sau lưng là ráng chiều rực rỡ, tay cầm thuốc giải hàn độc, không phân biệt hỉ nộ.
Trong nhà đá lặng ngắt như tờ.
Mở cửa ra, nàng chết lặng tại chỗ.
Trên giường đá, Liễu Nghê Thường nhắm nghiền mắt, khuôn mặt phủ đầy sương mù dày đặc. Lúc chết, trên môi nàng vẫn nở nụ cười, nhưng vì đã chết được một thời gian, nụ cười trở nên cứng đờ, không còn vẻ mềm mại tươi đẹp như lúc còn sống.
Nàng quyết định tha cho nàng ấy một mạng, nhưng nàng ấy lại chết trước khi nàng kịp hồi tâm chuyển ý.
Ninh Tự lạnh lùng, tự tay chôn cất nàng.
Ngày thứ một trăm sáu mươi tám sau khi Liễu Nghê Thường chết, Ninh Tự đến phòng luyện thuốc, luyện thuốc ba ngày ba đêm không chịu ăn uống, thuốc do nàng chế ra chính là thuốc giải hàn độc.
Tên gọi là “Nhất Niệm Đan“.
Cái gọi là nhất niệm, là yêu sâu đậm chỉ trong một ý niệm, cũng là hận sâu sắc chỉ trong một ý niệm.
Chỉ trong một ý niệm, nàng đã trở thành tội nhân của dược cốc.
Chỉ trong một ý niệm, nàng đã vĩnh viễn mất đi người yêu.
Một trăm lẻ tám loại thuốc giải độc đã được tạo ra, nàng vừa khóc vừa cười, trong chớp mắt, toàn bộ thuốc giải mà nàng đã khổ công luyện chế đều bị phá hủy.
Nàng có rất nhiều nghi ngờ, nhưng người duy nhất có thể giải đáp nghi ngờ của nàng cũng không còn nữa, luyện chế thêm thuốc giải có ích gì?
Ninh Tự chậm rãi đi đến mộ phần, tự tay đào xác Liễu Nghê Thường ra.
Thi hài không bị thối rữa là tình yêu cuối cùng mà nàng dành cho tiểu thư.
Nàng canh gác bên thi hài Liễu Nghê Thường ba ngày ba đêm, cuối cùng mới phát hiện dấu vết của “Mê Tâm Cổ” trên người của người đã khuất.
“Mê Tâm Cổ” là một loại độc dược không có thuốc chữa trong truyền thuyết, kẻ sử dụng loại cổ này có thể điều khiển nó để làm rối loạn tâm trí của con người.
Thời gian trôi qua, con người dù có tỉnh táo đến đâu cũng sẽ trở thành những con rối dưới sự điều khiển của loại cổ trùng này.
Lúc Ninh Tự còn trẻ, ngày rời khỏi cốc, phần cuối cùng của “Dược Điển” mà nàng học chính là ghi chép về “Mê Tâm Cổ“.
“Người bị trúng loại độc này không thể tự chủ được...Ninh Tự! Chạy cái gì mà chạy? Ngươi mau ở lại cùng các trưởng lão học cách giải độc. Loại độc này có thể gây hại cho người, ấy, Ninh Tự! Ngươi có nghe ta nói không?”
Hôm đó nàng vội chạy trốn nên không thèm nghe lời khuyên của tam trưởng lão, vừa chạy ra khỏi cốc thì gặp Liễu Nghê Thường đang đứng trên Đoạn Kiều ngắm phong cảnh.
Là duyên, là nghiệt duyên.
Lời của tam trưởng lão vẫn còn văng vẳng bên tai, nàng không khỏi nghĩ: Nếu hôm đó nàng ở lại để cùng các trưởng lão nghiên cứu loại độc dược này, chế ra thuốc giải, liệu mọi chuyện có khác không?
Đại tiểu thư có thuốc giải, các trưởng lão cũng sẽ không chết.
Họ sẽ sống hạnh phúc bên nhau.
Giống như nhiều năm trước Nghê Thường đã ôm nàng, nói vào tai nàng những chuyện đó, thần tiên quyến lữ, cá nước thân mật.
Ninh Tự khóc đến mù một con mắt, rời khỏi cốc đúng lúc hoa xuân nở rộ, thề sẽ tiêu diệt hết cổ trùng trên thế giới.
Kẻ nào dưỡng cổ, đều phải bị giết!
Chỉ vì chuyện này mà nàng đã hao phí ba mươi năm.
Chỉ vì nàng mà giáo phái “Cổ Tông” rắc rối, khó giải quyết đã hoàn toàn biến mất trong dòng chảy cuồn cuộn của lịch sử.
Ba mươi năm sau, mộ của Liễu Nghê Thường tràn ngập đủ mọi sắc hoa.
Ninh Tự cầm trường kiếm trong tay bước vào phòng luyện thuốc, luyện ra một viên thuốc giải và thuốc độc, phong ấn vào hộp ngọc lạnh lẽo để không làm mất đi hiệu quả của thuốc.
Chỉ hai viên thuốc này, một viên thuốc giải và một viên thuốc độc đã cô đọng những gì nàng đã học được trong suốt cuộc đời mình. Nếu có hậu nhân nào có thể dốc lòng nghiên cứu, việc khai tông lập phái chỉ là chuyện sớm muộn.
Để tránh việc sau này có người dùng hàn độc làm hại người khác, nàng đã dùng hơi thở cuối cùng để viết ra “Phương pháp âm dương hồi tố“.
Ba trăm năm sau, chiếc hộp ngọc đựng thuốc quý đã biến mất, chỉ còn lại một quyển sách cổ mang dấu ấn thời gian.
Hai mắt Trì Hành sáng ngời, chỉ vào dòng chữ nhỏ đó và nói: “Tỷ tỷ, tỷ tỷ có nhìn thấy không?”
Âm dương hồi tố.
Chỉ bốn chữ ngắn ngủi mà Thanh Hòa đã cảm thấy tim đập nhanh một cách kỳ lạ, nàng không lật tiếp nữa, cẩn thận gấp lại trang sách.
“Thấy rõ.”
Nàng căn bản không nhìn đến trang cuối cùng, Trì Hành sốt ruột, mắt đảo một vòng, ra vẻ nghi ngờ: “Tỷ tỷ, tỷ nói xem tại sao Ninh tiền bối đã để lại thuốc giải mà còn để lại thuốc độc? Đây chẳng phải là mâu thuẫn sao?
Nếu có người dùng thuốc độc để hại người mà lại không biết phương pháp tố hồi này, chẳng phải chỉ có thể khiến người thân đau khổ, kẻ thù vui mừng sao?”
Nàng thật sự thông minh, chỉ một câu “người thân đau khổ, kẻ thù vui mừng” đã trực tiếp đi thẳng vào lòng người.
Thẩm Thanh Hòa im lặng nhìn nàng, tựa như nghe không hiểu nàng đang ý tại ngôn ngoại, nhẹ nhàng nói: “Ninh tiền bối đã mất đi gia đình và những người thân yêu nhất, tính tình thay đổi mạnh mẽ cũng là điều hợp lý. Trải qua những biến cố bi thảm kia, nếu vẫn muốn ngài ấy giữ lại nét ngây thơ thuở thiếu thời thì đúng là làm khó ngài ấy.
Thuốc độc, thuốc giải đều là di sản cả đời ngài ấy. Thuốc giải có thể cứu người, thuốc độc cũng có thể cứu người nếu dùng đúng. Không phải thuốc sai, sai là ở người dùng thuốc để làm hại người khác.”
Nghe nàng say sưa trò chuyện, nhìn nàng bình thản ung dung, Trì Hành thở dài: “Uyển Uyển, tỷ biết ta không phải muốn nói cái này.”
Tiếp nối câu chuyện tình yêu đầy bi thương giữa Phượng Sinh và Đế Cơ ở “Niệm Sinh Kiều” của Loan thành, đây lại là một câu chuyện tình yêu nữ - nữ khác không có kết thúc tốt đẹp.
Thanh Hòa vừa đọc xong câu chuyện, lòng đang buồn bã lại phải bất lực nhìn tiểu tướng quân chớp chớp đôi mắt sáng rực, chăm chú nhìn mình.
Trong lòng nàng nhũn ra, thực sự không thể nói ra lời cự tuyệt, “Được rồi, chúng ta tiếp tục xem đi.”
Bị ép đến không còn cách nào khác, cuối cùng cũng phải thỏa hiệp.
Chỉ hy vọng rằng cái gọi là “Phương pháp âm dương hồi tố” này không phải như nàng nghĩ.
Thấy nàng đồng ý, Trì Hành mỉm cười mở sách cổ ra, không kịp chờ đợi mà trực tiếp lật đến trang sau, lo rằng Thẩm cô nương không nghe rõ liền mở miệng đọc to: “Ngô [2] cả đời gắn bó với thuốc, thuốc không phân biệt đúng sai, mà người thì có thiện ác.
[2]: Ta, chúng ta.
Hàn độc không thể chữa khỏi, nếu sau này có người không may mắc phải loại độc này, có thể tìm một hài tử thuần khiết, tốt bụng, lấy chân khí thuần dương làm nguồn dẫn, chuyển hàn độc sang bản thân, bồi bổ cho thuần dương. Độc chia thành hai, thân mang hàn độc cũng có thể kéo dài tính mạng thêm năm năm.”
“...”
Bản thân Ninh Tự cũng rất đau khổ vì mất đi người yêu, nàng không muốn nhìn thấy người khác cũng mất đi tình yêu của mình, nhưng hành động của nàng lại rất mâu thuẫn.
Có phương pháp để kéo dài tính mạng, nhưng phương pháp đó lại vô cùng khó tìm.
Giống như câu nói kia của nàng: Thuốc không phân biệt đúng sai, mà người thì có thiện ác.
Thiện hay ác, hoàn toàn phụ thuộc vào việc ai đó có sẵn sàng trải qua sinh tử vì ngươi hay không.
Trong sách cổ không viết về kết cục của người thuần dương sau khi độc bị chia làm hai, điều này đã biến nỗi bất an, nghi ngờ của Thanh Hòa trở thành sự thật, nàng chưa kịp nghiêm giọng từ chối, Trì Hành đã vui mừng nói: “Tỷ tỷ, không phải ta tu luyện chân khí thuần dương sao? Có thể kéo dài tính mạng thêm năm năm, việc này chắc chắn không lỗ!”
Ở đâu mà chắc chắn có lời, không lỗ, nếu như ngay cả ngươi cũng bị cuốn vào thì sao?
Nàng lắc đầu quả quyết: “Không được.”
“Tại sao lại không được? Đây là cơ hội chỉ có một lần trong đời, tỷ nói với ta không được, là muốn ta nhìn tỷ không có thuốc nào cứu được sao?”
Quen biết nhau nhiều năm, nàng hiếm khi trở mặt với Thanh Hòa, khuôn mặt nhỏ tuấn tú vốn đã tái nhợt, lúc này càng thêm lạnh lùng như băng:
“Từ nhỏ ta đã tu luyện chân khí thuần dương nên sở hữu thể chất thuần dương. Nếu có thể giúp tỷ bớt chịu khổ sở vì hàn độc thì những gì ta học được cũng coi như áp dụng đúng chỗ, cớ gì mà không làm?
Dù tính tình của Ninh tiền bối có kỳ quái đến đâu thì cũng là một y giả. Ta một lòng muốn cứu người, ngài ấy cũng đã nói, cần tìm một hài tử thuần khiết, tốt bụng. Vì tỷ, ta nguyện ý tạm thời làm hài tử đó. Dù ngài ấy có bất thường đến đâu cũng không thể hại người tốt mà chính miệng mình đã thừa nhận.”
“Không được, ta không đồng ý.”
Đoán trước nàng sẽ không dễ dàng nhả ra, Trì Hành tức giận đến nỗi khuôn mặt nhỏ nhắn phồng lên. Mấy ngày nay bị thương nặng, khuôn mặt nàng đã gầy đi nhiều, nhưng lúc này lại có thể phồng lên vì tức giận, có thể thấy được thực sự rất ức chế.
Bộ dáng của nàng quả thực vô cùng đáng yêu, Thanh Hòa nhẹ nhàng an ủi: “Ngươi còn chưa khỏi bệnh, không cần phải vì ta...”
“Hừ!”
Tiểu tướng quân dùng lỗ mũi trút giận, quay lưng lại không thèm để ý đến người kia.
“A Trì, ngươi không cần vì ta...”
“Hừ!”
Không hiểu sao nhìn thấy tiểu tướng quân tức giận đến mức này, Thanh Hòa lại muốn cười. Muốn cười nhưng lại đau đầu, nàng nói: “A Trì, ngươi thực sự không cần vì ta mà——”
“Nhưng ta lại muốn vì tỷ mà làm như vậy, Thẩm Thanh Hòa, tỷ muốn ta thấy chết mà không cứu, ta làm không được.''
Lần đầu tiên hai người cãi vã, lần đầu tiên A Trì gọi đầy đủ họ tên của nàng, hai lần đầu tiên chồng lên nhau, Thanh Hòa đột nhiên không nói nên lời, đứng đó bất động, đôi mắt đỏ hoe.
Nhìn thấy vẻ mặt sắp khóc nhưng lại cố nén của nàng, trong lòng Trì Hành cảm thấy hối hận, sợ nàng khóc, càng sợ bị nàng khóc đến mềm lòng.
Nhưng chuyện liên quan đến tính mạng, sao có thể vì vài giọt nước mắt mà nhượng bộ?
Phú quý hiểm trung cầu.
Mệnh cũng là như thế!
Nàng không tin một cao thủ y thuật như dược cốc truyền nhân trước khi lâm chung viết ra phương pháp hồi tố chỉ để một người sống, một người chết. Tiền bối cố ý viết không rõ ràng, có lẽ là để thử thách quyết tâm của người muốn cứu.
Nàng chịu đựng không nhìn cảnh Thẩm Thanh Hòa rơi nước mắt, tuy thực sự rất đẹp nhưng nàng đâu phải là người có thể vì sắc đẹp mà từ bỏ nguyên tắc?
Tiểu tướng quân lại lần nữa tập trung sự chú ý vào quyển sách cổ, nhìn vào phương pháp âm dương hồi tố được vẽ trên đó, chưa hiểu rõ, miệng vô thức bắt đầu đọc những chữ nhỏ bên cạnh hình vẽ:
“Tiên Thiên Công có khả năng 'hồi dương' và 'chuyển giao'. Nếu muốn thực hiện phương pháp tố hồi, hai người phải...trần, trần truồng đối diện nhau?!”
—Soạt!
Quyển sách cổ bị người dùng mưu lấy đi.
Khổ nhục kế của Thanh Hòa không hiệu quả lại còn bị mấy câu của nàng làm cho đỏ mặt tía tai, trong miệng cố nén lại câu “đăng đồ tử”, trừng mắt nhìn người kia.
Trì tiểu tướng quân bị trừng mắt đến mức bỗng nhiên nhớ đến thân phận nữ nhi của mình, ngượng ngùng cười trừ.
Trần truồng đối diện nhau, lúc thực hiện còn phải giữ bí mật thân phận của mình, quả thực hơi khó khăn.
Nàng vắt óc suy nghĩ, nghiêm túc nói: “Tỷ tỷ, để ta suy nghĩ một chút.”
“Không cho phép nghĩ nữa.”
Thanh Hòa xấu hổ đến nỗi trên má nàng hiện lên hai rặng mây đỏ.
Tiểu tướng quân nhìn thấy mà vui mừng trong lòng, ngoài miệng hồn nhiên nói: “Tỷ tỷ, ta sẽ không chiếm tiện nghi của tỷ đâu mà.”
Thẩm Thanh Hòa không chịu được nữa, quay người rời đi, bóng lưng thoạt nhìn rất lúng túng.
Trì Hành cười hai tiếng, tiếng cười vang vọng trong không gian, Thanh Hoà dừng lại dưới gốc cây hòe, xoa xoa đôi tai đang nóng lên của mình, một lúc sau lại nghe thấy tiếng ho khan của vị tiểu tướng quân từ trong nhà đá truyền đến.
Nàng đỏ mặt ôm trán, dở khóc dở cười.
Tuy nhiên, nàng cũng biết được sự kiên trì của A Trì trong mọi việc, một khi đã nhận định một chuyện gì đó thì sẽ không dễ dàng thay đổi.
Nên làm thế nào đây?
Tim nàng đập thình thịch, dần dần sinh ra hoang mang: Làm sao hàn độc có thể dễ dàng giải quyết như vậy?
Tiểu tướng quân cười sặc sụa, ho khan đến mức vết thương đau nhức, nhắm mắt vận chuyển chân khí trong cơ thể trong hai đại chu thiên, cuối cùng trên mặt cũng có chút ửng hồng.
Nàng ngẩng đầu lên, tự nhủ: Xem ra nếu muốn kéo dài tính mạng cho Uyển Uyển thì bản thân trước hết phải dưỡng thương cho tốt đã, nếu không Uyển Uyển tuyệt đối sẽ không đồng ý cho nàng làm bậy.
Trên sách cổ viết, Tiên Thiên Công còn được gọi là Tiên Thiên Thuần Dương Công, có hiệu quả kỳ diệu trong việc hồi phục vết thương.
Trì Hành đêm hôm đó tuy bị thương nặng nhưng không chết, ngoài công lao về y thuật của Thanh Hòa còn phải kể đến sự kỳ diệu trong công pháp mà nàng tu luyện.
Thể chất thuần dương tu luyện chân khí thuần dương thường đạt được hiệu quả gấp đôi, mang lại rất nhiều lợi ích.
Chỉ cần còn một hơi thở là còn một tia hy vọng.
Sau đó nàng rất tích cực dưỡng thương, không bao giờ nhắc đến “Phương pháp âm dương hồi tố” nữa.
Nàng ấy càng như vậy, trong lòng Thanh Hòa càng không yên tâm, nhưng việc nàng ấy có thể ngoan ngoãn dưỡng thương cũng là điều Thanh Hòa mong muốn nhất, những chuyện còn lại nàng không muốn nghĩ nhiều.
Nửa tháng thời gian trôi qua nhanh như một cái chớp mắt.
Thời tiết nóng nực, vào mùa hè ve sầu kêu không dứt.
Tiểu tướng quân nhặt về một cái mạng kiên trì vung đao năm trăm lần ngoài trời, xong rồi mới vội vã về nhà tắm, mồ hôi đầm đìa.
Trời đang nắng nhẹ, Thanh Hòa đang bận rộn mày mò trồng các loại thảo mộc dưới gốc cây, khi ngước lên nhìn thấy nàng với khuôn mặt rạng rỡ đang đi về phía mình, trái tim đập rộn ràng hai nhịp.
A Trì trước mặt dường như đã cao lên, đường nét thanh tú đẹp như tranh vẽ, vết thương đã lành, thân hình cũng thon thả và cao lớn hơn.
Nếu mang phong thái lãng mạn này trở về Thịnh Kinh mà cưỡi ngựa dạo phố, chắc chắn sẽ bị các quý nữ ở trong kinh thành ném trái cây đến choáng váng.
Nàng đột nhiên mím môi: Nàng hiểu A Trì, A Trì sẽ không ngoan ngoãn đứng đó để bị ném.
Nếu có người ném nàng, bất kể có ném trúng hay không, nàng nhất định sẽ ném trả.
Đồ ngốc này.
“Uyển Uyển, uống miếng nước làm dịu cổ họng đi.”
Đồ ngốc Trì Hành hai tay bưng chén nước đưa lên miệng nàng.
Cúi đầu uống vài ngụm từ tay nàng, trong đầu Thanh Hòa chợt nảy ra một ý nghĩ: Vô sự hiến ân cần.
“Uyển Uyển...”
“Hửm?” Nàng quay người sang một bên, không nhìn nàng ấy.
Tiểu tướng quân xum xoe, không bỏ cuộc mà đi vòng quanh nàng, nhìn nàng bằng đôi mắt ươn ướt: “Uyển Uyển, tỷ đồng ý đi. Ta đã nghĩ cách giải độc cho tỷ rồi.
Chắc chắn tỷ chưa phát hiện trong nhà đá có một cánh cửa bí mật. Nếu mở cánh cửa ra, bên trong là một căn phòng bí mật cực kỳ tối tăm. Chúng ta dùng khăn che mắt lại, tỷ không nhìn ta, ta không nhìn tỷ...”
“Vậy cũng không ổn.”
“Vết thương của ta đã lành, có thể vì tỷ mà chuyển giao hàn độc. Tỷ cự tuyệt bằng mọi giá, chẳng lẽ là vì để ý ta là 'nam tử', không bỏ được mặt mũi, lo lắng khỏa thân sẽ làm tổn hại đến sự trong sạch của tỷ sao?”
Cổ họng nàng khô khốc, căng thẳng chờ đợi câu trả lời.
Sự căng thẳng này trong mắt Thanh Hòa, chính là nàng có bí mật không muốn người khác biết về thân phận của mình.
Nàng không biết Trì gia muốn gì, sao có thể dùng một thân hàn độc này ép nàng ấy thú nhận?
Nàng nhẹ nhàng thở dài: “A Trì, ta không có.”
“Không có chẳng phải tốt rồi sao? Có gì mà phải do dự? Tỷ còn muốn ta nhìn tỷ phát độc bao nhiêu lần nữa?”
Trì Hành nói với giọng nghẹn ngào nức nở: “Tỷ không ngại tổn hại sự trong sạch, ta cũng không ngại hàn độc xâm nhập. Đôi khi sự trong sạch của nữ tử còn quan trọng hơn cả mạng sống, tỷ còn sẵn sàng 'chết' vì ta rồi, vậy ta mạo hiểm một lần vì tỷ thì có sao đâu?”
Lúc nàng nói chuyện thực sự đã rơi nước mắt.
Từ nhỏ đến lớn nàng không sợ trời không sợ đất, ngay cả khi bị đại tướng quân đánh đến trầy da tróc vảy, nàng cũng không rơi một giọt nước mắt nào, nhưng bây giờ nàng đang khóc nức nở.
Tâm trí Thanh Hòa rối bời, bình thường đầy mưu trí, nhanh nhẹn nhưng giờ đây lại không biết làm thế nào để dỗ dành nàng ấy.
“Được rồi, được rồi, đừng khóc...”
“Không, không được chút nào. Tỷ muốn ta nhìn tỷ chịu hàn độc mà bất lực không làm gì được, chẳng thà tỷ lấy đao giết ta cho xong.”
Nàng nghẹn ngào, nước mắt lăn dài trên má: “Vất vả lắm mới tìm được cách kéo dài mạng sống của tỷ, vậy mà tỷ lại không chịu. Ta có thể chất thuần dương, không sợ hàn độc. Ta còn không sợ, tỷ do dự cái gì?
Chúng ta là con cháu nhà tướng, lại còn sợ chết sao? Có cơ hội sống sót thì tại sao phải lùi bước chứ?
Mạng của chúng ta quý giá lắm, vậy mà tỷ lại không trân trọng, tỷ muốn ta nghĩ sao đây?
Ta cũng cầu xin tỷ rồi, thế mà tỷ vẫn ngây ngốc nhìn ta khóc, muốn tỷ gật đầu thực sự khó đến vậy sao?”
Nàng hỏi liên tiếp mấy câu, câu nào Thanh Hòa cũng không trả lời được.
Chẳng lẽ nói bởi vì trong lòng ta có ngươi, không đành lòng để ngươi chịu khổ vì ta, thà chết cũng không muốn nhìn thấy ngươi chịu hàn độc?
Nói ra chỉ khiến A Trì chưa biết ái tình sợ hãi mà thôi.
Nàng không nói được, hiện tại chưa phải lúc.
Trong sơn cốc vắng vẻ, không cần lo bị xấu hổ, Trì Hành ngồi dưới đất khóc lớn.
Nàng không thể suy luận đúng đắn nên chỉ có thể hành động liều lĩnh.
Nói lý không được, đành phải khóc lóc ầm ĩ thôi.
Nàng không giỏi mè nheo ăn vạ, nhưng Thịnh Kinh là nơi nào? Tiểu tướng quân sinh ra lớn lên ở đây, đã trải qua nhiều chuyện, dù không có nhiều nước mắt thì vẫn có thể gào khóc thảm thiết.
Chuyện khóc này, cần chú ý cái gì?
Hoặc là khóc như hoa lê đái vũ, khiến người ta cảm thấy đáng thương, giống như vẻ ẩn nhẫn xinh đẹp lần trước của Uyển Uyển khi nhìn nàng với đôi mắt đẫm lệ.
Hoặc là khóc đến kinh thiên động địa, đến mức người đối diện bịt tai lại vẫn cảm thấy bất lực như trời đất đang sụp đổ.
Cứ khóc là được.
Chỉ cần lớn tiếng là được.
Tiếng khóc này làm cho trái tim Thanh Hòa tan nát.
Cũng không nghĩ tới nàng lại dùng chiêu này.
Nếu nàng nhớ không nhầm thì đây là thủ đoạn mà A Trì thường dùng với Trì phu nhân.
Sau tám tuổi, nàng ít khi sử dụng lại.
Có một nữ nhi khóc mãi không chịu nín, nàng lập tức hiểu được Trì phu nhân cũng không dễ dàng, nhẹ nhàng xoa xoa lông mày: “A Trì, ngươi có thể buông tha cho ta được không?”
“Tỷ có đồng ý hay không? Nếu tỷ không đồng ý, ta sẽ tiếp tục—”
“Ta đồng ý.”
Trì Hành lau nước mắt, mở to mắt, muốn nhìn rõ nàng: “Tỷ nói cái gì?”
Thẩm Thanh Hòa cúi người đỡ nàng đứng dậy, cười trong nước mắt: “Ta nói ta đồng ý, đồng ý để ngươi cứu ta. Chỉ là, khổ thân A Trì của ta...”
“Không khổ, ta không khổ!” Tiểu tướng quân kích động đến nỗi phun nước mũi, sắc mặt cứng đờ, từ trong túi tay áo móc ra một chiếc khăn tay, mặt đen sì, vẻ mặt uất ức: “Tỷ nói tỷ đó, đáng lẽ nên đồng ý từ sớm, cũng đỡ phải—”
Eo bỗng được người nọ ôm.
Cơ thể mềm mại hơi se lạnh áp sát vào, nàng nuốt lại lời định nói, ngẩng đầu suy nghĩ một lát, vòng tay ôm chặt lấy vòng eo thon thả ấy.
Dưới ánh nắng rực rỡ của mùa hè, nàng híp mắt nhìn về phía xa xăm, giọng nhẹ nhàng: “Uyển Uyển, tỷ sẽ ổn thôi. Nhất định sẽ ổn.”
Quyển sách cổ ố vàng, từng trang sách được lật mở, bày ra trước mắt Trì Hành và Thanh Hòa là một câu chuyện rất dài.
Không thể nói là thê lương mà đẹp đẽ, chỉ có thể gọi là bi ai và phẫn uất.
Một câu chuyện tình bi ai.
Ba trăm năm trước, người thừa kế xuất chúng của dược cốc lần đầu tiên ra khỏi thung lũng, trở thành tiểu tùy tùng của Liễu gia đại tiểu thư.
Liễu Nghê Thường, người con gái với nhan sắc khuynh đảo thiên hạ, xuất thân từ gia tộc võ lâm nhưng không hề kiêu căng tự mãn vì thân phận nữ nhi của minh chủ.
Nàng là người rộng lượng, luôn nhã nhặn, lễ độ với người khác, không coi thường những người yếu thế hơn mình, có trái tim nhân hậu, dần dần trong giang hồ nàng có một biệt danh nổi tiếng——Nghê Thường tiên tử
Bất cứ ai từng nhìn thấy Nghê Thường tiên tử, bất kể nam hay nữ đều bị mê hoặc bởi vẻ ngoài hoàn hảo hoặc bị thu hút bởi tính tình như nước của nàng.
Từng có một câu nói thế này: Ngươi có thể thoát khỏi sự truy đuổi của Võ lâm minh chủ, nhưng không thể thoát khỏi ánh mắt của Nghê Thường tiên tử.
Mỹ nhân quan, anh hùng trủng [1], chỉ cần nàng nhìn ngươi một cái, ngươi sẽ có thể vì nàng mà chết.
[1]: Ải mỹ nhân là mồ chôn anh hùng.
Truyền nhân của dược cốc chỉ mới mười lăm tuổi, tâm trong sáng như ngọc lưu ly, luôn mang lòng từ bi, không biết lòng người hiểm ác.
Ngay lúc ngã xuống Đoạn Kiều, được Liễu Nghê Thường hạ mình đỡ dậy, bên tai vang lên một giọng nói dịu dàng: “Ngươi có nguyện ý luôn bên cạnh bầu bạn với ta không?”
Ninh Tự đã trả lời thế nào?
Nàng ngơ ngác nhìn vị nữ tử mặc bạch y tựa như tiên nữ, mặt đỏ bừng: “Nguyện, nguyện ý!”
Một lần gặp gỡ Liễu Nghê Thường, Ninh Tự bằng lòng làm tùy tùng của nàng trong suốt năm năm.
Đại tiểu thư đối xử với nàng vô cùng ân cần, quan tâm chu đáo.
Năm năm bốn tháng, từ xa lạ đến quen thuộc, cả hai đều buông thả tình ý, để cho cảm tình phát triển đến mức không thể quay đầu lại.
Ninh Tự yêu nàng.
Liễu Nghê Thường cũng thành công khiến nàng phải lòng mình.
Cho đến một ngày, trang chủ của Thí Kiếm sơn trang tới cầu hôn, Liễu Nghê Thường tìm đến Ninh Tự, trực tiếp nói với nàng: Ta không muốn lấy chồng, đưa ta đi đi.
Ninh Tự vui mừng như điên, đêm hôm khuya khoắt bắt cóc người đi, đưa đến dược cốc như chốn đào nguyên tiên cảnh.
Khi đó dược cốc còn chưa bị người ngoài phá hủy, nói đây là tiên cảnh chốn nhân gian cũng không quá lời.
Vừa vào cốc, nhờ vào tính tình hiền lành và ngoại hình xuất chúng mà Liễu Nghê Thường đã thành công chiếm được cảm tình của người trong cốc.
Hai người sắp sửa kết hôn, nàng ngày ngày nài nỉ Ninh Tự dẫn nàng đi du ngoạn những cảnh đẹp núi non hùng vĩ gần dược cốc, âm thầm vẽ bản đồ, dùng phương pháp đặc biệt để đưa bản đồ ra ngoài, đưa đến tay cha ruột là Võ lâm minh chủ.
Chẳng bao lâu sau, dược cốc bị bao vây.
Ngày hôm đó, Ninh Tự mất đi nhà cửa, mất đi những trưởng lão đã nuôi nấng nàng, không còn người thân cũng không còn người yêu.
Dựa vào lần tính kế đáng hổ thẹn này, Võ lâm minh chủ đã thu được tài nguyên mà dược cốc tích lũy trong hàng trăm năm, Liễu minh chủ uy phong lừng lẫy, võ công tiến bộ vượt bậc.
Ông cũng được nhiều người kính trọng vì bản tính thích làm việc thiện, thường xuyên sử dụng đan dược để cứu người.
Liễu Nghê Thường chứng kiến ”cái chết” của Ninh Tự, sau khi về nhà đã lâm bệnh nặng, nét tươi tắn ngày nào không còn nữa nhưng nhan sắc lại càng thêm rạng rỡ hơn xưa.
Tựa như con cưng của trời, dù chỉ còn thoi thóp cũng khiến vô số người say đắm.
Để cứu mạng nàng mà sẵn sàng từ bỏ mạng sống của mình.
Nàng sắp chết vì bệnh tật mà vẫn có người điên cuồng muốn cưới nàng vào cửa.
Bốn năm sau, Võ lâm minh chủ cuối cùng đã chọn liên hôn với Thí Kiếm sơn trang từ trong đám người theo đuổi.
Ngày thành hôn, tuyết rơi dày đặc.
Giữa tiếng kèn trống rộn rã, Ninh Tự từ trên trời giáng xuống, lướt qua màn tuyết trắng xóa.
Một kiếm giết chết Liễu minh chủ, đồng thời một kiếm chém đầu của trang chủ Thí Kiếm sơn trang, ánh mắt tàn nhẫn, lạnh lùng hơn băng tuyết.
Sau khi đại khai sát giới, báo thù rửa hận, nàng đã bắt đi Liễu Nghê Thường đang ngồi trong hỉ kiệu, hơi thở nàng lúc này thoi thóp, màu môi trắng bệch.
Nhìn thấy cha ruột của mình nằm chết trên vũng máu, Liễu Nghê Thường nép vào trong ngực nàng, mỉm cười nhẹ nhõm, nói lời cảm ơn với tùy tùng ngốc trước đây của nàng.
Nàng muốn Liễu Cảnh Thăng chết hơn bất cứ ai.
Nàng cười rộ lên cũng đẹp hơn bất kỳ ai khác.
Nhưng nàng sắp chết.
Nàng cảm thấy may mắn vì mình sắp chết.
Không cần phải mang theo một thân bệnh tật bước vào nấm mồ của người xa lạ, không cần phải tiếp tục làm con rối chịu sự điều khiển của người khác, không cần phải làm những việc mình không thích.
Nàng cười rất vui vẻ, nụ cười rạng rỡ và chân thành hơn bất kỳ nụ cười nào mà Ninh Tự từng thấy trước đây.
Đáng tiếc, nàng vẫn chưa chết được.
Ninh Tự đã cứu nàng.
Đây là khởi đầu cho một giai đoạn khác trong cuộc đời nàng, đầy ngọt ngào và cay đắng.
Liễu Nghê Thường lại được đưa vào dược cốc.
“Ta đã bào chế một loại thuốc độc cho ngươi, đại tiểu thư có muốn uống nó không?”
Khi nói những lời này, Ninh Tự đeo mặt nạ bạc che nửa khuôn mặt, giọng điệu ôn hòa, quen thuộc như Liễu Nghê Thường đã từng nghe trong suốt những năm qua.
“Ta muốn.” Đại tiểu thư từ trên giường đá bò dậy, lấy thuốc độc làm thuốc giải.
Ninh Tự là thần đồng hàng trăm năm chưa từng có ở dược cốc, nhưng vị thần đồng chưa từng có này lại mang đến tai họa cho dược cốc.
Nàng cả tin, hết lòng vì người khác, nhưng thực tế tàn nhẫn đã giáng cho nàng một đòn nặng nề.
Nặng nề đến mức Liễu Nghê Thường mỗi ngày đều phải chịu khổ sở vì hàn độc, nặng nề đến mức phải nhìn nàng sống không bằng chết, hối hận trong lòng mới có thể vơi đi phần nào.
Khi ở trong dược cốc, cuộc sống của họ không khác gì bốn năm trước. Nàng vì nàng ấy mà đánh đàn khiêu vũ, nàng ấy vì nàng mà múa kiếm, thưởng hoa.
Nếu phải nói thì điểm khác biệt duy nhất chính là nàng không còn cảm thấy thương xót cho nàng ấy nữa.
Ninh Tự lạnh lùng nhìn Liễu Nghê Thường bị dày vò mười ba năm.
Mười ba năm sau, vào một buổi tối nọ, nàng bước ra từ phòng luyện thuốc, sau lưng là ráng chiều rực rỡ, tay cầm thuốc giải hàn độc, không phân biệt hỉ nộ.
Trong nhà đá lặng ngắt như tờ.
Mở cửa ra, nàng chết lặng tại chỗ.
Trên giường đá, Liễu Nghê Thường nhắm nghiền mắt, khuôn mặt phủ đầy sương mù dày đặc. Lúc chết, trên môi nàng vẫn nở nụ cười, nhưng vì đã chết được một thời gian, nụ cười trở nên cứng đờ, không còn vẻ mềm mại tươi đẹp như lúc còn sống.
Nàng quyết định tha cho nàng ấy một mạng, nhưng nàng ấy lại chết trước khi nàng kịp hồi tâm chuyển ý.
Ninh Tự lạnh lùng, tự tay chôn cất nàng.
Ngày thứ một trăm sáu mươi tám sau khi Liễu Nghê Thường chết, Ninh Tự đến phòng luyện thuốc, luyện thuốc ba ngày ba đêm không chịu ăn uống, thuốc do nàng chế ra chính là thuốc giải hàn độc.
Tên gọi là “Nhất Niệm Đan“.
Cái gọi là nhất niệm, là yêu sâu đậm chỉ trong một ý niệm, cũng là hận sâu sắc chỉ trong một ý niệm.
Chỉ trong một ý niệm, nàng đã trở thành tội nhân của dược cốc.
Chỉ trong một ý niệm, nàng đã vĩnh viễn mất đi người yêu.
Một trăm lẻ tám loại thuốc giải độc đã được tạo ra, nàng vừa khóc vừa cười, trong chớp mắt, toàn bộ thuốc giải mà nàng đã khổ công luyện chế đều bị phá hủy.
Nàng có rất nhiều nghi ngờ, nhưng người duy nhất có thể giải đáp nghi ngờ của nàng cũng không còn nữa, luyện chế thêm thuốc giải có ích gì?
Ninh Tự chậm rãi đi đến mộ phần, tự tay đào xác Liễu Nghê Thường ra.
Thi hài không bị thối rữa là tình yêu cuối cùng mà nàng dành cho tiểu thư.
Nàng canh gác bên thi hài Liễu Nghê Thường ba ngày ba đêm, cuối cùng mới phát hiện dấu vết của “Mê Tâm Cổ” trên người của người đã khuất.
“Mê Tâm Cổ” là một loại độc dược không có thuốc chữa trong truyền thuyết, kẻ sử dụng loại cổ này có thể điều khiển nó để làm rối loạn tâm trí của con người.
Thời gian trôi qua, con người dù có tỉnh táo đến đâu cũng sẽ trở thành những con rối dưới sự điều khiển của loại cổ trùng này.
Lúc Ninh Tự còn trẻ, ngày rời khỏi cốc, phần cuối cùng của “Dược Điển” mà nàng học chính là ghi chép về “Mê Tâm Cổ“.
“Người bị trúng loại độc này không thể tự chủ được...Ninh Tự! Chạy cái gì mà chạy? Ngươi mau ở lại cùng các trưởng lão học cách giải độc. Loại độc này có thể gây hại cho người, ấy, Ninh Tự! Ngươi có nghe ta nói không?”
Hôm đó nàng vội chạy trốn nên không thèm nghe lời khuyên của tam trưởng lão, vừa chạy ra khỏi cốc thì gặp Liễu Nghê Thường đang đứng trên Đoạn Kiều ngắm phong cảnh.
Là duyên, là nghiệt duyên.
Lời của tam trưởng lão vẫn còn văng vẳng bên tai, nàng không khỏi nghĩ: Nếu hôm đó nàng ở lại để cùng các trưởng lão nghiên cứu loại độc dược này, chế ra thuốc giải, liệu mọi chuyện có khác không?
Đại tiểu thư có thuốc giải, các trưởng lão cũng sẽ không chết.
Họ sẽ sống hạnh phúc bên nhau.
Giống như nhiều năm trước Nghê Thường đã ôm nàng, nói vào tai nàng những chuyện đó, thần tiên quyến lữ, cá nước thân mật.
Ninh Tự khóc đến mù một con mắt, rời khỏi cốc đúng lúc hoa xuân nở rộ, thề sẽ tiêu diệt hết cổ trùng trên thế giới.
Kẻ nào dưỡng cổ, đều phải bị giết!
Chỉ vì chuyện này mà nàng đã hao phí ba mươi năm.
Chỉ vì nàng mà giáo phái “Cổ Tông” rắc rối, khó giải quyết đã hoàn toàn biến mất trong dòng chảy cuồn cuộn của lịch sử.
Ba mươi năm sau, mộ của Liễu Nghê Thường tràn ngập đủ mọi sắc hoa.
Ninh Tự cầm trường kiếm trong tay bước vào phòng luyện thuốc, luyện ra một viên thuốc giải và thuốc độc, phong ấn vào hộp ngọc lạnh lẽo để không làm mất đi hiệu quả của thuốc.
Chỉ hai viên thuốc này, một viên thuốc giải và một viên thuốc độc đã cô đọng những gì nàng đã học được trong suốt cuộc đời mình. Nếu có hậu nhân nào có thể dốc lòng nghiên cứu, việc khai tông lập phái chỉ là chuyện sớm muộn.
Để tránh việc sau này có người dùng hàn độc làm hại người khác, nàng đã dùng hơi thở cuối cùng để viết ra “Phương pháp âm dương hồi tố“.
Ba trăm năm sau, chiếc hộp ngọc đựng thuốc quý đã biến mất, chỉ còn lại một quyển sách cổ mang dấu ấn thời gian.
Hai mắt Trì Hành sáng ngời, chỉ vào dòng chữ nhỏ đó và nói: “Tỷ tỷ, tỷ tỷ có nhìn thấy không?”
Âm dương hồi tố.
Chỉ bốn chữ ngắn ngủi mà Thanh Hòa đã cảm thấy tim đập nhanh một cách kỳ lạ, nàng không lật tiếp nữa, cẩn thận gấp lại trang sách.
“Thấy rõ.”
Nàng căn bản không nhìn đến trang cuối cùng, Trì Hành sốt ruột, mắt đảo một vòng, ra vẻ nghi ngờ: “Tỷ tỷ, tỷ nói xem tại sao Ninh tiền bối đã để lại thuốc giải mà còn để lại thuốc độc? Đây chẳng phải là mâu thuẫn sao?
Nếu có người dùng thuốc độc để hại người mà lại không biết phương pháp tố hồi này, chẳng phải chỉ có thể khiến người thân đau khổ, kẻ thù vui mừng sao?”
Nàng thật sự thông minh, chỉ một câu “người thân đau khổ, kẻ thù vui mừng” đã trực tiếp đi thẳng vào lòng người.
Thẩm Thanh Hòa im lặng nhìn nàng, tựa như nghe không hiểu nàng đang ý tại ngôn ngoại, nhẹ nhàng nói: “Ninh tiền bối đã mất đi gia đình và những người thân yêu nhất, tính tình thay đổi mạnh mẽ cũng là điều hợp lý. Trải qua những biến cố bi thảm kia, nếu vẫn muốn ngài ấy giữ lại nét ngây thơ thuở thiếu thời thì đúng là làm khó ngài ấy.
Thuốc độc, thuốc giải đều là di sản cả đời ngài ấy. Thuốc giải có thể cứu người, thuốc độc cũng có thể cứu người nếu dùng đúng. Không phải thuốc sai, sai là ở người dùng thuốc để làm hại người khác.”
Nghe nàng say sưa trò chuyện, nhìn nàng bình thản ung dung, Trì Hành thở dài: “Uyển Uyển, tỷ biết ta không phải muốn nói cái này.”
Tiếp nối câu chuyện tình yêu đầy bi thương giữa Phượng Sinh và Đế Cơ ở “Niệm Sinh Kiều” của Loan thành, đây lại là một câu chuyện tình yêu nữ - nữ khác không có kết thúc tốt đẹp.
Thanh Hòa vừa đọc xong câu chuyện, lòng đang buồn bã lại phải bất lực nhìn tiểu tướng quân chớp chớp đôi mắt sáng rực, chăm chú nhìn mình.
Trong lòng nàng nhũn ra, thực sự không thể nói ra lời cự tuyệt, “Được rồi, chúng ta tiếp tục xem đi.”
Bị ép đến không còn cách nào khác, cuối cùng cũng phải thỏa hiệp.
Chỉ hy vọng rằng cái gọi là “Phương pháp âm dương hồi tố” này không phải như nàng nghĩ.
Thấy nàng đồng ý, Trì Hành mỉm cười mở sách cổ ra, không kịp chờ đợi mà trực tiếp lật đến trang sau, lo rằng Thẩm cô nương không nghe rõ liền mở miệng đọc to: “Ngô [2] cả đời gắn bó với thuốc, thuốc không phân biệt đúng sai, mà người thì có thiện ác.
[2]: Ta, chúng ta.
Hàn độc không thể chữa khỏi, nếu sau này có người không may mắc phải loại độc này, có thể tìm một hài tử thuần khiết, tốt bụng, lấy chân khí thuần dương làm nguồn dẫn, chuyển hàn độc sang bản thân, bồi bổ cho thuần dương. Độc chia thành hai, thân mang hàn độc cũng có thể kéo dài tính mạng thêm năm năm.”
“...”
Bản thân Ninh Tự cũng rất đau khổ vì mất đi người yêu, nàng không muốn nhìn thấy người khác cũng mất đi tình yêu của mình, nhưng hành động của nàng lại rất mâu thuẫn.
Có phương pháp để kéo dài tính mạng, nhưng phương pháp đó lại vô cùng khó tìm.
Giống như câu nói kia của nàng: Thuốc không phân biệt đúng sai, mà người thì có thiện ác.
Thiện hay ác, hoàn toàn phụ thuộc vào việc ai đó có sẵn sàng trải qua sinh tử vì ngươi hay không.
Trong sách cổ không viết về kết cục của người thuần dương sau khi độc bị chia làm hai, điều này đã biến nỗi bất an, nghi ngờ của Thanh Hòa trở thành sự thật, nàng chưa kịp nghiêm giọng từ chối, Trì Hành đã vui mừng nói: “Tỷ tỷ, không phải ta tu luyện chân khí thuần dương sao? Có thể kéo dài tính mạng thêm năm năm, việc này chắc chắn không lỗ!”
Ở đâu mà chắc chắn có lời, không lỗ, nếu như ngay cả ngươi cũng bị cuốn vào thì sao?
Nàng lắc đầu quả quyết: “Không được.”
“Tại sao lại không được? Đây là cơ hội chỉ có một lần trong đời, tỷ nói với ta không được, là muốn ta nhìn tỷ không có thuốc nào cứu được sao?”
Quen biết nhau nhiều năm, nàng hiếm khi trở mặt với Thanh Hòa, khuôn mặt nhỏ tuấn tú vốn đã tái nhợt, lúc này càng thêm lạnh lùng như băng:
“Từ nhỏ ta đã tu luyện chân khí thuần dương nên sở hữu thể chất thuần dương. Nếu có thể giúp tỷ bớt chịu khổ sở vì hàn độc thì những gì ta học được cũng coi như áp dụng đúng chỗ, cớ gì mà không làm?
Dù tính tình của Ninh tiền bối có kỳ quái đến đâu thì cũng là một y giả. Ta một lòng muốn cứu người, ngài ấy cũng đã nói, cần tìm một hài tử thuần khiết, tốt bụng. Vì tỷ, ta nguyện ý tạm thời làm hài tử đó. Dù ngài ấy có bất thường đến đâu cũng không thể hại người tốt mà chính miệng mình đã thừa nhận.”
“Không được, ta không đồng ý.”
Đoán trước nàng sẽ không dễ dàng nhả ra, Trì Hành tức giận đến nỗi khuôn mặt nhỏ nhắn phồng lên. Mấy ngày nay bị thương nặng, khuôn mặt nàng đã gầy đi nhiều, nhưng lúc này lại có thể phồng lên vì tức giận, có thể thấy được thực sự rất ức chế.
Bộ dáng của nàng quả thực vô cùng đáng yêu, Thanh Hòa nhẹ nhàng an ủi: “Ngươi còn chưa khỏi bệnh, không cần phải vì ta...”
“Hừ!”
Tiểu tướng quân dùng lỗ mũi trút giận, quay lưng lại không thèm để ý đến người kia.
“A Trì, ngươi không cần vì ta...”
“Hừ!”
Không hiểu sao nhìn thấy tiểu tướng quân tức giận đến mức này, Thanh Hòa lại muốn cười. Muốn cười nhưng lại đau đầu, nàng nói: “A Trì, ngươi thực sự không cần vì ta mà——”
“Nhưng ta lại muốn vì tỷ mà làm như vậy, Thẩm Thanh Hòa, tỷ muốn ta thấy chết mà không cứu, ta làm không được.''
Lần đầu tiên hai người cãi vã, lần đầu tiên A Trì gọi đầy đủ họ tên của nàng, hai lần đầu tiên chồng lên nhau, Thanh Hòa đột nhiên không nói nên lời, đứng đó bất động, đôi mắt đỏ hoe.
Nhìn thấy vẻ mặt sắp khóc nhưng lại cố nén của nàng, trong lòng Trì Hành cảm thấy hối hận, sợ nàng khóc, càng sợ bị nàng khóc đến mềm lòng.
Nhưng chuyện liên quan đến tính mạng, sao có thể vì vài giọt nước mắt mà nhượng bộ?
Phú quý hiểm trung cầu.
Mệnh cũng là như thế!
Nàng không tin một cao thủ y thuật như dược cốc truyền nhân trước khi lâm chung viết ra phương pháp hồi tố chỉ để một người sống, một người chết. Tiền bối cố ý viết không rõ ràng, có lẽ là để thử thách quyết tâm của người muốn cứu.
Nàng chịu đựng không nhìn cảnh Thẩm Thanh Hòa rơi nước mắt, tuy thực sự rất đẹp nhưng nàng đâu phải là người có thể vì sắc đẹp mà từ bỏ nguyên tắc?
Tiểu tướng quân lại lần nữa tập trung sự chú ý vào quyển sách cổ, nhìn vào phương pháp âm dương hồi tố được vẽ trên đó, chưa hiểu rõ, miệng vô thức bắt đầu đọc những chữ nhỏ bên cạnh hình vẽ:
“Tiên Thiên Công có khả năng 'hồi dương' và 'chuyển giao'. Nếu muốn thực hiện phương pháp tố hồi, hai người phải...trần, trần truồng đối diện nhau?!”
—Soạt!
Quyển sách cổ bị người dùng mưu lấy đi.
Khổ nhục kế của Thanh Hòa không hiệu quả lại còn bị mấy câu của nàng làm cho đỏ mặt tía tai, trong miệng cố nén lại câu “đăng đồ tử”, trừng mắt nhìn người kia.
Trì tiểu tướng quân bị trừng mắt đến mức bỗng nhiên nhớ đến thân phận nữ nhi của mình, ngượng ngùng cười trừ.
Trần truồng đối diện nhau, lúc thực hiện còn phải giữ bí mật thân phận của mình, quả thực hơi khó khăn.
Nàng vắt óc suy nghĩ, nghiêm túc nói: “Tỷ tỷ, để ta suy nghĩ một chút.”
“Không cho phép nghĩ nữa.”
Thanh Hòa xấu hổ đến nỗi trên má nàng hiện lên hai rặng mây đỏ.
Tiểu tướng quân nhìn thấy mà vui mừng trong lòng, ngoài miệng hồn nhiên nói: “Tỷ tỷ, ta sẽ không chiếm tiện nghi của tỷ đâu mà.”
Thẩm Thanh Hòa không chịu được nữa, quay người rời đi, bóng lưng thoạt nhìn rất lúng túng.
Trì Hành cười hai tiếng, tiếng cười vang vọng trong không gian, Thanh Hoà dừng lại dưới gốc cây hòe, xoa xoa đôi tai đang nóng lên của mình, một lúc sau lại nghe thấy tiếng ho khan của vị tiểu tướng quân từ trong nhà đá truyền đến.
Nàng đỏ mặt ôm trán, dở khóc dở cười.
Tuy nhiên, nàng cũng biết được sự kiên trì của A Trì trong mọi việc, một khi đã nhận định một chuyện gì đó thì sẽ không dễ dàng thay đổi.
Nên làm thế nào đây?
Tim nàng đập thình thịch, dần dần sinh ra hoang mang: Làm sao hàn độc có thể dễ dàng giải quyết như vậy?
Tiểu tướng quân cười sặc sụa, ho khan đến mức vết thương đau nhức, nhắm mắt vận chuyển chân khí trong cơ thể trong hai đại chu thiên, cuối cùng trên mặt cũng có chút ửng hồng.
Nàng ngẩng đầu lên, tự nhủ: Xem ra nếu muốn kéo dài tính mạng cho Uyển Uyển thì bản thân trước hết phải dưỡng thương cho tốt đã, nếu không Uyển Uyển tuyệt đối sẽ không đồng ý cho nàng làm bậy.
Trên sách cổ viết, Tiên Thiên Công còn được gọi là Tiên Thiên Thuần Dương Công, có hiệu quả kỳ diệu trong việc hồi phục vết thương.
Trì Hành đêm hôm đó tuy bị thương nặng nhưng không chết, ngoài công lao về y thuật của Thanh Hòa còn phải kể đến sự kỳ diệu trong công pháp mà nàng tu luyện.
Thể chất thuần dương tu luyện chân khí thuần dương thường đạt được hiệu quả gấp đôi, mang lại rất nhiều lợi ích.
Chỉ cần còn một hơi thở là còn một tia hy vọng.
Sau đó nàng rất tích cực dưỡng thương, không bao giờ nhắc đến “Phương pháp âm dương hồi tố” nữa.
Nàng ấy càng như vậy, trong lòng Thanh Hòa càng không yên tâm, nhưng việc nàng ấy có thể ngoan ngoãn dưỡng thương cũng là điều Thanh Hòa mong muốn nhất, những chuyện còn lại nàng không muốn nghĩ nhiều.
Nửa tháng thời gian trôi qua nhanh như một cái chớp mắt.
Thời tiết nóng nực, vào mùa hè ve sầu kêu không dứt.
Tiểu tướng quân nhặt về một cái mạng kiên trì vung đao năm trăm lần ngoài trời, xong rồi mới vội vã về nhà tắm, mồ hôi đầm đìa.
Trời đang nắng nhẹ, Thanh Hòa đang bận rộn mày mò trồng các loại thảo mộc dưới gốc cây, khi ngước lên nhìn thấy nàng với khuôn mặt rạng rỡ đang đi về phía mình, trái tim đập rộn ràng hai nhịp.
A Trì trước mặt dường như đã cao lên, đường nét thanh tú đẹp như tranh vẽ, vết thương đã lành, thân hình cũng thon thả và cao lớn hơn.
Nếu mang phong thái lãng mạn này trở về Thịnh Kinh mà cưỡi ngựa dạo phố, chắc chắn sẽ bị các quý nữ ở trong kinh thành ném trái cây đến choáng váng.
Nàng đột nhiên mím môi: Nàng hiểu A Trì, A Trì sẽ không ngoan ngoãn đứng đó để bị ném.
Nếu có người ném nàng, bất kể có ném trúng hay không, nàng nhất định sẽ ném trả.
Đồ ngốc này.
“Uyển Uyển, uống miếng nước làm dịu cổ họng đi.”
Đồ ngốc Trì Hành hai tay bưng chén nước đưa lên miệng nàng.
Cúi đầu uống vài ngụm từ tay nàng, trong đầu Thanh Hòa chợt nảy ra một ý nghĩ: Vô sự hiến ân cần.
“Uyển Uyển...”
“Hửm?” Nàng quay người sang một bên, không nhìn nàng ấy.
Tiểu tướng quân xum xoe, không bỏ cuộc mà đi vòng quanh nàng, nhìn nàng bằng đôi mắt ươn ướt: “Uyển Uyển, tỷ đồng ý đi. Ta đã nghĩ cách giải độc cho tỷ rồi.
Chắc chắn tỷ chưa phát hiện trong nhà đá có một cánh cửa bí mật. Nếu mở cánh cửa ra, bên trong là một căn phòng bí mật cực kỳ tối tăm. Chúng ta dùng khăn che mắt lại, tỷ không nhìn ta, ta không nhìn tỷ...”
“Vậy cũng không ổn.”
“Vết thương của ta đã lành, có thể vì tỷ mà chuyển giao hàn độc. Tỷ cự tuyệt bằng mọi giá, chẳng lẽ là vì để ý ta là 'nam tử', không bỏ được mặt mũi, lo lắng khỏa thân sẽ làm tổn hại đến sự trong sạch của tỷ sao?”
Cổ họng nàng khô khốc, căng thẳng chờ đợi câu trả lời.
Sự căng thẳng này trong mắt Thanh Hòa, chính là nàng có bí mật không muốn người khác biết về thân phận của mình.
Nàng không biết Trì gia muốn gì, sao có thể dùng một thân hàn độc này ép nàng ấy thú nhận?
Nàng nhẹ nhàng thở dài: “A Trì, ta không có.”
“Không có chẳng phải tốt rồi sao? Có gì mà phải do dự? Tỷ còn muốn ta nhìn tỷ phát độc bao nhiêu lần nữa?”
Trì Hành nói với giọng nghẹn ngào nức nở: “Tỷ không ngại tổn hại sự trong sạch, ta cũng không ngại hàn độc xâm nhập. Đôi khi sự trong sạch của nữ tử còn quan trọng hơn cả mạng sống, tỷ còn sẵn sàng 'chết' vì ta rồi, vậy ta mạo hiểm một lần vì tỷ thì có sao đâu?”
Lúc nàng nói chuyện thực sự đã rơi nước mắt.
Từ nhỏ đến lớn nàng không sợ trời không sợ đất, ngay cả khi bị đại tướng quân đánh đến trầy da tróc vảy, nàng cũng không rơi một giọt nước mắt nào, nhưng bây giờ nàng đang khóc nức nở.
Tâm trí Thanh Hòa rối bời, bình thường đầy mưu trí, nhanh nhẹn nhưng giờ đây lại không biết làm thế nào để dỗ dành nàng ấy.
“Được rồi, được rồi, đừng khóc...”
“Không, không được chút nào. Tỷ muốn ta nhìn tỷ chịu hàn độc mà bất lực không làm gì được, chẳng thà tỷ lấy đao giết ta cho xong.”
Nàng nghẹn ngào, nước mắt lăn dài trên má: “Vất vả lắm mới tìm được cách kéo dài mạng sống của tỷ, vậy mà tỷ lại không chịu. Ta có thể chất thuần dương, không sợ hàn độc. Ta còn không sợ, tỷ do dự cái gì?
Chúng ta là con cháu nhà tướng, lại còn sợ chết sao? Có cơ hội sống sót thì tại sao phải lùi bước chứ?
Mạng của chúng ta quý giá lắm, vậy mà tỷ lại không trân trọng, tỷ muốn ta nghĩ sao đây?
Ta cũng cầu xin tỷ rồi, thế mà tỷ vẫn ngây ngốc nhìn ta khóc, muốn tỷ gật đầu thực sự khó đến vậy sao?”
Nàng hỏi liên tiếp mấy câu, câu nào Thanh Hòa cũng không trả lời được.
Chẳng lẽ nói bởi vì trong lòng ta có ngươi, không đành lòng để ngươi chịu khổ vì ta, thà chết cũng không muốn nhìn thấy ngươi chịu hàn độc?
Nói ra chỉ khiến A Trì chưa biết ái tình sợ hãi mà thôi.
Nàng không nói được, hiện tại chưa phải lúc.
Trong sơn cốc vắng vẻ, không cần lo bị xấu hổ, Trì Hành ngồi dưới đất khóc lớn.
Nàng không thể suy luận đúng đắn nên chỉ có thể hành động liều lĩnh.
Nói lý không được, đành phải khóc lóc ầm ĩ thôi.
Nàng không giỏi mè nheo ăn vạ, nhưng Thịnh Kinh là nơi nào? Tiểu tướng quân sinh ra lớn lên ở đây, đã trải qua nhiều chuyện, dù không có nhiều nước mắt thì vẫn có thể gào khóc thảm thiết.
Chuyện khóc này, cần chú ý cái gì?
Hoặc là khóc như hoa lê đái vũ, khiến người ta cảm thấy đáng thương, giống như vẻ ẩn nhẫn xinh đẹp lần trước của Uyển Uyển khi nhìn nàng với đôi mắt đẫm lệ.
Hoặc là khóc đến kinh thiên động địa, đến mức người đối diện bịt tai lại vẫn cảm thấy bất lực như trời đất đang sụp đổ.
Cứ khóc là được.
Chỉ cần lớn tiếng là được.
Tiếng khóc này làm cho trái tim Thanh Hòa tan nát.
Cũng không nghĩ tới nàng lại dùng chiêu này.
Nếu nàng nhớ không nhầm thì đây là thủ đoạn mà A Trì thường dùng với Trì phu nhân.
Sau tám tuổi, nàng ít khi sử dụng lại.
Có một nữ nhi khóc mãi không chịu nín, nàng lập tức hiểu được Trì phu nhân cũng không dễ dàng, nhẹ nhàng xoa xoa lông mày: “A Trì, ngươi có thể buông tha cho ta được không?”
“Tỷ có đồng ý hay không? Nếu tỷ không đồng ý, ta sẽ tiếp tục—”
“Ta đồng ý.”
Trì Hành lau nước mắt, mở to mắt, muốn nhìn rõ nàng: “Tỷ nói cái gì?”
Thẩm Thanh Hòa cúi người đỡ nàng đứng dậy, cười trong nước mắt: “Ta nói ta đồng ý, đồng ý để ngươi cứu ta. Chỉ là, khổ thân A Trì của ta...”
“Không khổ, ta không khổ!” Tiểu tướng quân kích động đến nỗi phun nước mũi, sắc mặt cứng đờ, từ trong túi tay áo móc ra một chiếc khăn tay, mặt đen sì, vẻ mặt uất ức: “Tỷ nói tỷ đó, đáng lẽ nên đồng ý từ sớm, cũng đỡ phải—”
Eo bỗng được người nọ ôm.
Cơ thể mềm mại hơi se lạnh áp sát vào, nàng nuốt lại lời định nói, ngẩng đầu suy nghĩ một lát, vòng tay ôm chặt lấy vòng eo thon thả ấy.
Dưới ánh nắng rực rỡ của mùa hè, nàng híp mắt nhìn về phía xa xăm, giọng nhẹ nhàng: “Uyển Uyển, tỷ sẽ ổn thôi. Nhất định sẽ ổn.”