Theo Đuổi Chim Loan
Chương 17
Vào ngày hôm đó, Chân Điều đã tự bỏ tiền túi mua một chiếc xe ngựa cho Tạ Lan Tư khi đi ngang qua một ngôi làng.
“Đa tạ hảo ý của Chân trường giải, nếu không, bằng hai chân của ta, ta cũng không biết phải làm sao.”
“Nào dám, nào dám, đây là chức trách của ty chức.”
Lệ Tri nhìn Tạ Lan Tư và Chân Điều khiêm nhường với nhau một lúc, cảm thán Tạ Lan Tư quản lý biểu cảm của mình quá tốt.
Nàng thậm chí còn tự hỏi liệu hắn có từng bị liệt qua chưa, nếu không thì làm sao hắn có thể diễn đến xuất thần nhập hóa cái biểu cảm ba phần đau buồn, bảy phần kiên cường của một người bị liệt như vậy?
Chân Điều đỡ Tạ Lan Tư lên xe ngựa xong, Lệ Tri nhanh chóng theo sau như một thị nữ.
Sau khi chắp tay cáo lui với Tạ Lan Tư, Chân Điều liếc nhìn Lệ Tri và cảnh báo:
“Phải hầu hạ Điện Hạ cho thật tốt đấy.”
Một lần đại nạn không chết, thái độ của Chân Điều đối với Tạ Lan Tư đã thay đổi rõ rệt.
Sau đó, khi những nha dịch khác ở bên ngoài phân phát khẩu phần lương thực hôm nay cho đám người lưu vong, thì Chân Điều dẫn theo một nông phụ gõ cửa xe ngựa, mang lên cháo loãng và đồ ăn kèm.
“Hai ngày nay Điện Hạ đã bị sợ hãi, ty chức tìm được một gia đình trong thôn, nhờ họ làm thêm một phần bữa tối.” Lời nói của Chân Điều kiềm chế, chắp tay ở dưới xe ngựa nói tiếp: “Chỉ là những món ăn phụ từ nông hộ mà thôi, không tính là tinh xảo, nhưng nó có thể giúp Điện Hạ thay đổi khẩu vị.”
Sau một phen khách sáo, Tạ Lan Tư nhận bốn món ăn và một chén canh trên khay gỗ.
Lệ Tri tường tận xem xét đồ ăn được bưng tới, cảm thấy Chân Điều có lẽ không nói sai.
“Hai mặt mâm gỗ đen bóng, hẳn là thường xuyên dùng tới, năm cái bát cũng là bát đất nung nông hộ thường dùng, hình như cũng đã dùng qua một đoạn thời gian.” Lệ Tri hỏi: “Điện Hạ cảm thấy như thế nào?”
Tạ Lan Tư nhặt một cây kim bạc có thể dùng để kiểm tra chất độc từ góc khay.
“Hắn là người thông minh.” Tạ Lan Tư nói.
Hai người chia nhau bốn món ăn, thậm chí còn uống sạch sẽ canh rau, lần đầu tiên Lệ Tri cảm thấy no kể từ khi rời Kinh Đô.
“Lúc Điện Hạ ở Đông Cung ăn cái gì?” Lệ Tri tùy ý hỏi: “Nghe nói quý nhân trong cung mỗi lần dùng cơm sẽ bày cả một bàn dài.”
“Đó là Hoàng Cung, không phải Đông Cung.” Tạ Lan Tư nói, “Các đầu bếp ở Đông Cung kế thừa công việc của cha họ. Trù nghệ qua quít bình thường, và bởi vì phụ thân ghét xa hoa, nên ông quy định nghiêm ngặt việc sử dụng hàng ngày của mọi người ở Đông Cung.”
“Ngay cả phụ thân ta mỗi ngày cũng chỉ ăn năm món một canh, bàn ăn trong Đông Cung còn không bằng một số quan viên ngũ phẩm.”
“Về phần ta.” Hắn nói, “Ta ăn nhiều nhất là cá hấp và rau luộc.”
Đồ ăn còn không tốt bằng Lệ Tri ở Lệ Gia. Lời này Lệ Tri chỉ dám nghĩ trong lòng, nàng cười nói:
“Chờ đến Minh Nguyệt Tháp, Điện Hạ liền có lộc ăn, ngài muốn ăn cái gì, ta đều có thể nấu cho Điện Hạ.”
“Nếu chúng ta không được phân cùng một chỗ thì sao?” Tạ Lan Tư hỏi.
Bây giờ ba nghìn dặm đã đi được nửa đường, Minh Nguyệt Tháp không còn là nơi không thể đến nữa.
Bọn họ cũng không phải là chuyển nhà đến Minh Nguyệt Tháp, mà là bị đày đến Minh Nguyệt Tháp đấy.
Những gì đang chờ đợi họ là các loại lao dịch không giống nhau. Nam tử phần lớn sẽ bị phái đi tu sửa tường thành và khuân vác, nữ tử thì bị phân làm tôi tớ cho những người mặc giáp.
Chờ đợi dòng người lưu đày là những tra tấn còn tuyệt vọng hơn so với việc phải trèo đèo lội suối.
Mặc dù Thái Tử bị phế và bị giáng xuống làm thứ dân, nhưng thân phận tôn thất của Tạ Lan Tư vẫn được giữ lại, nhìn thấy Hoàng Đế vẫn có thể gọi một tiếng là Hoàng Gia Gia, chắc hẳn khi hắn đến Minh Nguyệt Tháp hắn sẽ được xem là thượng khách.
Đám người Lệ Tri thì khác.
Vận mệnh của bọn họ giống như bèo trên mặt nước, một con sóng có thể phá hủy họ.
“Cho dù chúng ta không được phân chung một chỗ,” Lệ Tri mỉm cười, giống như không biết khi bị phân cho một người mặc giáp làm tôi tớ là việc kinh khủng đến mức nào, “Ta cũng sẽ nấu bất cứ thứ gì Điện Hạ muốn ăn.”
Tạ Lan Tư nhìn nàng, như thể đang đánh giá lời nói của nàng có bao nhiêu phần đáng tin.
Một lát sau, hắn dời mắt, từ chối cho ý kiến.
Con đường vắng tiếng chuông gió như trôi qua nhanh hơn, nháy mắt mùa xuân đã qua rồi.
Mùa hè nóng bức ập đến, có người đang đi thì ngã quỵ, không bao giờ tỉnh lại nữa. Ngay cả khi nằm trong xe ngựa, quần áo của họ cũng ướt đẫm mồ hôi, mồ hôi trên mặt chưa từng ngừng chảy.
Lệ Tri chưa bao giờ cảm thấy tiếng ve kêu ồn ào như vậy. Dường trong trời đất chỉ còn lại tiếng ve sầu kêu vô tận.
Vào cao điểm của mùa hè, mỗi ngày Lệ Tri đều mong đợi mùa hè mau qua, nhưng thời gian ở lại mùa thu mát mẻ ngắn hơn nàng tưởng tượng, giống như chỉ một cái chớp mắt liền rời đi, và mùa đông lạnh giá khiến người ta khiếp sợ lại ập đến.
Hành trình của dòng người lưu vong cũng đã đi đến hồi kết sau một năm hai tháng.
Ngày đến Minh Nguyệt Tháp, mọi người không hẹn mà đều dừng bước lại, lẳng lặng nhìn về phía cổng thành uy nghiêm giữa sương mù dày đặc.
Vào mùa đông lạnh giá, Minh Nguyệt Tháp tối tăm giống như địa ngục trần gian được nhắc đến trong thoại bản, núi rừng xám xịt bao quanh trấn, không nghe được một tiếng chim hót, sương mù lạnh lẽo đọng lại trên cổng thành và tháp canh, không thấy một bóng người, dường như tất cả các sinh linh sống đã bị diệt sạch ở đây.
Bọn nha dịch dùng roi thúc giục họ, dòng người miễn cưỡng tiếp tục tiến về phía trước.
Khi họ đến gần hơn, những binh lính gác cổng xuất hiện, bộ giáp nặng nề và vẻ mặt lạnh lùng càng làm bầu không khí bất cận nhân tình ở đây thêm trầm trọng.
Sau khi đám nha dịch nói chuyện với tướng lĩnh thủ thành, dòng người mới được phép vào cổng thành.
Xe ngựa đi qua cuối cùng, tướng lĩnh thủ thành cùng thuộc hạ đứng ở cửa, hành lễ từ xa với Tạ Lan Tư trong xe ngựa.
Lệ Tri thở phào nhẹ nhõm, xem ra cuộc sống của Tạ Lan Tư ở Minh Nguyệt Tháp sẽ không phải khổ sở.
Chỉ cần hắn sống tốt, nàng cũng sẽ không tệ.
Đi qua cửa thành không bao lâu, xe ngựa dừng lại, Chân Điều dẫn theo một binh lính mặt đen đứng ở ngoài xe ngựa.
“Đô hộ Minh Nguyệt Tháp mời Điện Hạ nhập phủ.”
Binh lính mặt đen hành lễ, vũ khí trên người vang lên, phía sau cách đó không xa, có một chiếc xe ngựa sang trọng hơi thấp đang chờ sẵn. Ngoài ra còn có bốn hán tử vạm vỡ đi theo xe ngựa chờ chuyển Tạ Lan Tư vào xe.
Tạ Lan Tư liếc nhìn Lệ Tri, di chuyển xuống xe. Chân Điều ngăn Lệ Tri đang xuống xe lại, hắn hất cằm về phía đội ngũ lưu vong.
“Ngươi có thể trở về.”
Lệ Tri cúi đầu thi lễ với bóng lưng Tạ Lan Tư một cái, sau đó nghe lời quay trở lại đội ngũ.
Một bộ phận người lưu vong không thân thiện với Lệ Tri, cố tình nói to những lời chỉ trích, nhưng Lệ Tri chỉ đứng im và tỏ ra bình tĩnh, như thể nàng không phải là người trong những lời đồn đãi đó.
Đa số những người còn lại thì không có tâm tình để chú ý đến Lệ Tri, họ trông có vẻ sợ hãi và không ngừng cầu nguyện mong cho bản thân họ được phân đến nơi tốt hơn một chút.
Đội ngũ dừng ở cổng huyện nha Minh Nguyệt Tháp, Chân Điều bước lên phía trước để mọi người giữ bình tĩnh, Nha Nội Huyện Lệnh đang phân nhóm người lưu vong thuộc quản lý của mình.
Mấy tên nha dịch da ngăm đen nghênh ngang nhận đút lót của những người lưu đày, còn những ai không có gì để đút lót thì nhìn người khác với vẻ hối hận và ghen tị. Bọn họ hối hận vì trước đây không chịu giữ đồ đạc của mình khi bị đánh, bị đói, nếu không thì bây giờ đã có thể xin được một công việc an toàn và thanh nhàn rồi.
Lệ Tấn Chi cúi đầu khom lưng nói chuyện với một nha dịch mặt đen, từ trong lòng lấy ra chiếc kim trâm của Vương Thị rồi đưa cho hắn ta.
Nha dịch hài lòng nhận lấy kim trâm rồi mang hắn tiến vào huyện nha.
Trịnh Thị trông mong nhìn theo bóng lưng của nhi tử, một lúc sau, Lệ Tấn Chi vui mừng bước ra, khi nhìn thấy Trịnh Thị, sự vui mừng của hắn chuyển thành hổ thẹn, sau khi nói gì đó với bà, Trịnh Thị như bị sét đánh, sắc mặt như tro tàn.
Danh sách những người làm lao dịch liên tục được công bố, phần lớn những kẻ đưa đút lót đều đã được đến những nơi an toàn tính mạng và không quá mệt nhọc.
Những người không đút lót thì thường phải đi tu sửa tường thành, đào than đá và làm những công việc nặng nhọc nhất, nữ tử hoặc là phân cho những tên mặc giáp hung bạo nhất, hoặc là bị gửi thẳng đến quân doanh làm doanh kỹ.
Trong lúc nhất thời, có người gào khóc, có người vui mừng.
“Lệ Tri……ai là Lệ Tri?”
Tên nha dịch đứng ở cửa huyện nha đọc tên của Lệ Tri, vẻ mặt có chút kinh ngạc, hắn ngẩng đầu nhìn vào đám người.
“Dân nữ chính là Lệ Tri.” Lệ Tri đứng ra.
“Ngươi…….” Nha dịch chỉ tay, “Đi Đô Hộ Phủ báo danh.”
Lệ Tri không ngạc nhiên, bình tĩnh tiếp nhận phân công.
Cùng lúc đó, Đô Hộ Minh Nguyệt Tháp Lỗ Hàm đã mời Tạ Lan Tư đến thư phòng Đô Hộ Phủ.
Thư phòng chủ yếu được làm bằng gỗ tử đàn. Trên bàn trà gần cửa sổ có một chiếc bình cao cổ tráng men màu xanh ngọc có hoa văn hoa sen, bên trong là những bông đỗ quyên trắng hồng. Trên chiếc bàn gỗ tử đàn được đặt ngay ngắn vài nghiên mực quý, đủ loại ngọc đồng, một tờ giấy viết thư mỏng được đặt trên bàn, bên trên là một phong thư vừa được mở ra.
Tạ Lan Tư vừa vào phủ, đã được mời làm thượng khách.
Lỗ Hàm bốn mươi tuổi, là một võ tướng nhưng lại giống một văn thần hơn, phong thái nhẹ nhàng, tâm tư tinh tế. Sau khi nhận được sự đồng ý của Tạ Lan Tư, hắn đã mời đại phu nổi tiếng nhất ở Minh Nguyệt Tháp đến điều trị bệnh chân cho Tạ Lan Tư.
Đại phu vẫn dùng ngân châm đâm vào trước, sắc mặt Tạ Lan Tư không thay đổi.
Đại phu thở dài, lắc đầu không ngừng.
Kết quả xem bệnh chỉ có Lỗ Hàm thất vọng, vì Tạ Lan Tư và một người khác không có mặt ở đây đều biết rằng ngay cả khi Đại La Thần Tiên đến, thì chân của hắn cũng không thể di chuyển được.
Sau khi để đại phu lui ra, Lỗ Hàm tỏ ra áy náy và dập đầu thỉnh tội với Tạ Lan Tư:
“Vi thần có tội, để Điện Hạ nhận hết gian nguy trên đường, đến nỗi hai chân bị liệt….“
Tạ Lan Tư ngồi trên sạp nhanh chóng đỡ hắn dậy.
“Ba nghìn dặm lưu đày đầy rẫy những việc ngoài ý muốn, cho dù Lỗ đại nhân có lòng, cũng là ngoài tầm với.” Tạ Lan Tư che miệng ho khan một tiếng, sắc mặt tái nhợt càng khiến hắn giống như ngọc quân tử bị hãm hại, “... Nếu trách tội ngươi, chẳng phải ta sẽ thành kẻ ngang ngược sao?”
“Điện Hạ nhân đức, giống như Thái….” Lỗ Hàm dừng một chút, “Như Đại Điện Hạ.”
“Lỗ đại nhân mời ngồi.” Tạ Lan Tư ra hiệu về phía bên kia sạp.
Sau khi Lỗ Hàm tạ ơn xong, hắn vén áo ngồi xuống, trầm giọng nói:
“Điện Hạ yên tâm, đây chỉ là đại phu nổi danh nhất trong trấn, nhưng trong sơn thôn còn có rất nhiều người tài ba dị sĩ, vi thần sẽ cho thuộc hạ đi tìm kiếm danh y ở khắp nơi, nhất định sẽ có một ngày Điện Hạ có thể đứng lên trở lại.”
“Hảo ý của Đô Hộ ta xin nhận, nhưng điều này có thể mang đến nguy hiểm cho Đô Hộ… Vẫn còn rất nhiều người ở Kinh Đô muốn diệt trừ ta.” Tạ Lan Tư tỏ vẻ do dự.
“Chỉ cần ý chỉ của Bệ Hạ không thay đổi, thì không ai có thể lấy mạng của Điện Hạ trong Minh Nguyệt Tháp.” Vẻ mặt kiên quyết của Lỗ Hàm lúc này mới cho thấy sự sát phạt quyết đoán của một võ tướng.
Tạ Lan Tư chắp tay nói lời cảm tạ, Lỗ Hàm vội nói không dám.
“Không dám giấu diếm, ta đã gặp Đại Điện Hạ khi còn là tứ phẩm đại tướng quân.” Lộc Hàm nói: “… Đó là yến tiệc đêm giao thừa trong Hoàng Cung, ta vì bận công vụ nên tới muộn, trên con đường tuyết rơi ngoài Cung, ta ngẫu nhiên nghe thấy các mưu thần bên cạnh Đại Điện Hạ đang thuyết phục ngài ấy. Hóa ra khi tất cả các Hoàng Tử đang dâng lên trân bảo và điềm lành cho Hoàng Thượng, thì Đại Điện Hạ lại dâng lên bức “Hà Tây Cơ Hoang Đồ” do một danh họa vẽ, và cầu xin Hoàng Thượng miễn tất cả các đại tiệc vào năm tới, đem ngân lượng tiết kiệm được cứu trợ nạn dân thiên tai ở Hà Tây, giúp dân xây dựng lại gia viên.”
“Lúc Hà Tây xảy ra thiên tai, Điện Hạ còn nhỏ nên có lẽ không biết nhiều về nó.” Lỗ Hàm nói, “Khi đó thiên tượng Hà Tây dị thường, một năm không thấy một giọt mưa. Các quan viên sợ phải gánh trách nhiệm nên không bẩm báo, triều đình không hề hay biết về thảm họa cho đến khi các nạn dân ở Hà Tây chạy trốn đến Kinh Đô. Lúc này, Hà Tây đã thành địa ngục trần gian. Có người căn cứ vào lời kể của nạn dân Hà Tây mà vẽ lên một bức tranh về thảm kịch ăn vỏ cây và đổi con để ăn thịt … Đây chính là bức “Hà Tây Cơ Hoang Đồ” mà Đại Điện Hạ đã dâng lên.”
“Không phải chỉ có một mình Đại Điện Hạ biết người dân Hà Tây đang sống trong địa ngục, cũng không phải chỉ có một mình Đại Điện Hạ biết là cứu trợ thiên tai có thể giảm bớt tai họa, nhưng chỉ có một mình ngài ấy vì người dân Hà Tây bất chấp sự an nguy của bản thân mà lên tiếng.”
“Cho nên, vi thần luôn tin rằng có ẩn tình khác trong chuyện mưu phản của Đại Điện Hạ.” Lỗ Hàm nói, “Nếu Điện Hạ muốn tra ra chân tướng, vi thần nguyện hiến chút lực mỏng của mình.”
Sau một hồi im lặng, Tạ Lan Tư chậm rãi nói.
“Tam Pháp Ti đều đậy nắp quan tài kết luận sự tình, dù ta có không tin thì cũng chỉ có thể tiếp nhận phán quyết.”
Lỗ Hàm muốn thuyết phục một lần nữa, nhưng Tạ Lan Tư ho lên, hắn không còn cách nào khác phải đè xuống không nhắc tới, rồi đưa trà cho Tạ Lan Tư.
“Thân thể của Điện Hạ, vi thần nhất định sẽ tìm đại phu giỏi nhất để điều trị. Điện Hạ cứ yên tâm điều dưỡng thân thể của mình thật tốt trong Đô Hộ Phủ.” Lỗ Hàm nói, “Còn về cô nương mà Điện Hạ tiến cử cho làm việc trong Đô Hộ Phủ….không biết Điện Hạ muốn an bài nàng ở nơi nào?”
Lỗ Hàm khéo léo hỏi, trên thực tế, điều muốn hỏi là nữ nhân này có phải là nữ quyến của Tạ Lan Tư hay không.
Nếu là nữ quyến, đương nhiên phải an bài họ ở cùng nhau.
Nếu không phải, vậy thì cứ dùng quan hệ thân sơ để luận bàn.
“Lỗ đại nhân quyết định là được..” Tạ Lan Tư nói, “Trên đường lưu đày, nàng đã giúp ta rất nhiều, hơn nữa….”
“Cũng không có quan hệ gì khác.”
“Đa tạ hảo ý của Chân trường giải, nếu không, bằng hai chân của ta, ta cũng không biết phải làm sao.”
“Nào dám, nào dám, đây là chức trách của ty chức.”
Lệ Tri nhìn Tạ Lan Tư và Chân Điều khiêm nhường với nhau một lúc, cảm thán Tạ Lan Tư quản lý biểu cảm của mình quá tốt.
Nàng thậm chí còn tự hỏi liệu hắn có từng bị liệt qua chưa, nếu không thì làm sao hắn có thể diễn đến xuất thần nhập hóa cái biểu cảm ba phần đau buồn, bảy phần kiên cường của một người bị liệt như vậy?
Chân Điều đỡ Tạ Lan Tư lên xe ngựa xong, Lệ Tri nhanh chóng theo sau như một thị nữ.
Sau khi chắp tay cáo lui với Tạ Lan Tư, Chân Điều liếc nhìn Lệ Tri và cảnh báo:
“Phải hầu hạ Điện Hạ cho thật tốt đấy.”
Một lần đại nạn không chết, thái độ của Chân Điều đối với Tạ Lan Tư đã thay đổi rõ rệt.
Sau đó, khi những nha dịch khác ở bên ngoài phân phát khẩu phần lương thực hôm nay cho đám người lưu vong, thì Chân Điều dẫn theo một nông phụ gõ cửa xe ngựa, mang lên cháo loãng và đồ ăn kèm.
“Hai ngày nay Điện Hạ đã bị sợ hãi, ty chức tìm được một gia đình trong thôn, nhờ họ làm thêm một phần bữa tối.” Lời nói của Chân Điều kiềm chế, chắp tay ở dưới xe ngựa nói tiếp: “Chỉ là những món ăn phụ từ nông hộ mà thôi, không tính là tinh xảo, nhưng nó có thể giúp Điện Hạ thay đổi khẩu vị.”
Sau một phen khách sáo, Tạ Lan Tư nhận bốn món ăn và một chén canh trên khay gỗ.
Lệ Tri tường tận xem xét đồ ăn được bưng tới, cảm thấy Chân Điều có lẽ không nói sai.
“Hai mặt mâm gỗ đen bóng, hẳn là thường xuyên dùng tới, năm cái bát cũng là bát đất nung nông hộ thường dùng, hình như cũng đã dùng qua một đoạn thời gian.” Lệ Tri hỏi: “Điện Hạ cảm thấy như thế nào?”
Tạ Lan Tư nhặt một cây kim bạc có thể dùng để kiểm tra chất độc từ góc khay.
“Hắn là người thông minh.” Tạ Lan Tư nói.
Hai người chia nhau bốn món ăn, thậm chí còn uống sạch sẽ canh rau, lần đầu tiên Lệ Tri cảm thấy no kể từ khi rời Kinh Đô.
“Lúc Điện Hạ ở Đông Cung ăn cái gì?” Lệ Tri tùy ý hỏi: “Nghe nói quý nhân trong cung mỗi lần dùng cơm sẽ bày cả một bàn dài.”
“Đó là Hoàng Cung, không phải Đông Cung.” Tạ Lan Tư nói, “Các đầu bếp ở Đông Cung kế thừa công việc của cha họ. Trù nghệ qua quít bình thường, và bởi vì phụ thân ghét xa hoa, nên ông quy định nghiêm ngặt việc sử dụng hàng ngày của mọi người ở Đông Cung.”
“Ngay cả phụ thân ta mỗi ngày cũng chỉ ăn năm món một canh, bàn ăn trong Đông Cung còn không bằng một số quan viên ngũ phẩm.”
“Về phần ta.” Hắn nói, “Ta ăn nhiều nhất là cá hấp và rau luộc.”
Đồ ăn còn không tốt bằng Lệ Tri ở Lệ Gia. Lời này Lệ Tri chỉ dám nghĩ trong lòng, nàng cười nói:
“Chờ đến Minh Nguyệt Tháp, Điện Hạ liền có lộc ăn, ngài muốn ăn cái gì, ta đều có thể nấu cho Điện Hạ.”
“Nếu chúng ta không được phân cùng một chỗ thì sao?” Tạ Lan Tư hỏi.
Bây giờ ba nghìn dặm đã đi được nửa đường, Minh Nguyệt Tháp không còn là nơi không thể đến nữa.
Bọn họ cũng không phải là chuyển nhà đến Minh Nguyệt Tháp, mà là bị đày đến Minh Nguyệt Tháp đấy.
Những gì đang chờ đợi họ là các loại lao dịch không giống nhau. Nam tử phần lớn sẽ bị phái đi tu sửa tường thành và khuân vác, nữ tử thì bị phân làm tôi tớ cho những người mặc giáp.
Chờ đợi dòng người lưu đày là những tra tấn còn tuyệt vọng hơn so với việc phải trèo đèo lội suối.
Mặc dù Thái Tử bị phế và bị giáng xuống làm thứ dân, nhưng thân phận tôn thất của Tạ Lan Tư vẫn được giữ lại, nhìn thấy Hoàng Đế vẫn có thể gọi một tiếng là Hoàng Gia Gia, chắc hẳn khi hắn đến Minh Nguyệt Tháp hắn sẽ được xem là thượng khách.
Đám người Lệ Tri thì khác.
Vận mệnh của bọn họ giống như bèo trên mặt nước, một con sóng có thể phá hủy họ.
“Cho dù chúng ta không được phân chung một chỗ,” Lệ Tri mỉm cười, giống như không biết khi bị phân cho một người mặc giáp làm tôi tớ là việc kinh khủng đến mức nào, “Ta cũng sẽ nấu bất cứ thứ gì Điện Hạ muốn ăn.”
Tạ Lan Tư nhìn nàng, như thể đang đánh giá lời nói của nàng có bao nhiêu phần đáng tin.
Một lát sau, hắn dời mắt, từ chối cho ý kiến.
Con đường vắng tiếng chuông gió như trôi qua nhanh hơn, nháy mắt mùa xuân đã qua rồi.
Mùa hè nóng bức ập đến, có người đang đi thì ngã quỵ, không bao giờ tỉnh lại nữa. Ngay cả khi nằm trong xe ngựa, quần áo của họ cũng ướt đẫm mồ hôi, mồ hôi trên mặt chưa từng ngừng chảy.
Lệ Tri chưa bao giờ cảm thấy tiếng ve kêu ồn ào như vậy. Dường trong trời đất chỉ còn lại tiếng ve sầu kêu vô tận.
Vào cao điểm của mùa hè, mỗi ngày Lệ Tri đều mong đợi mùa hè mau qua, nhưng thời gian ở lại mùa thu mát mẻ ngắn hơn nàng tưởng tượng, giống như chỉ một cái chớp mắt liền rời đi, và mùa đông lạnh giá khiến người ta khiếp sợ lại ập đến.
Hành trình của dòng người lưu vong cũng đã đi đến hồi kết sau một năm hai tháng.
Ngày đến Minh Nguyệt Tháp, mọi người không hẹn mà đều dừng bước lại, lẳng lặng nhìn về phía cổng thành uy nghiêm giữa sương mù dày đặc.
Vào mùa đông lạnh giá, Minh Nguyệt Tháp tối tăm giống như địa ngục trần gian được nhắc đến trong thoại bản, núi rừng xám xịt bao quanh trấn, không nghe được một tiếng chim hót, sương mù lạnh lẽo đọng lại trên cổng thành và tháp canh, không thấy một bóng người, dường như tất cả các sinh linh sống đã bị diệt sạch ở đây.
Bọn nha dịch dùng roi thúc giục họ, dòng người miễn cưỡng tiếp tục tiến về phía trước.
Khi họ đến gần hơn, những binh lính gác cổng xuất hiện, bộ giáp nặng nề và vẻ mặt lạnh lùng càng làm bầu không khí bất cận nhân tình ở đây thêm trầm trọng.
Sau khi đám nha dịch nói chuyện với tướng lĩnh thủ thành, dòng người mới được phép vào cổng thành.
Xe ngựa đi qua cuối cùng, tướng lĩnh thủ thành cùng thuộc hạ đứng ở cửa, hành lễ từ xa với Tạ Lan Tư trong xe ngựa.
Lệ Tri thở phào nhẹ nhõm, xem ra cuộc sống của Tạ Lan Tư ở Minh Nguyệt Tháp sẽ không phải khổ sở.
Chỉ cần hắn sống tốt, nàng cũng sẽ không tệ.
Đi qua cửa thành không bao lâu, xe ngựa dừng lại, Chân Điều dẫn theo một binh lính mặt đen đứng ở ngoài xe ngựa.
“Đô hộ Minh Nguyệt Tháp mời Điện Hạ nhập phủ.”
Binh lính mặt đen hành lễ, vũ khí trên người vang lên, phía sau cách đó không xa, có một chiếc xe ngựa sang trọng hơi thấp đang chờ sẵn. Ngoài ra còn có bốn hán tử vạm vỡ đi theo xe ngựa chờ chuyển Tạ Lan Tư vào xe.
Tạ Lan Tư liếc nhìn Lệ Tri, di chuyển xuống xe. Chân Điều ngăn Lệ Tri đang xuống xe lại, hắn hất cằm về phía đội ngũ lưu vong.
“Ngươi có thể trở về.”
Lệ Tri cúi đầu thi lễ với bóng lưng Tạ Lan Tư một cái, sau đó nghe lời quay trở lại đội ngũ.
Một bộ phận người lưu vong không thân thiện với Lệ Tri, cố tình nói to những lời chỉ trích, nhưng Lệ Tri chỉ đứng im và tỏ ra bình tĩnh, như thể nàng không phải là người trong những lời đồn đãi đó.
Đa số những người còn lại thì không có tâm tình để chú ý đến Lệ Tri, họ trông có vẻ sợ hãi và không ngừng cầu nguyện mong cho bản thân họ được phân đến nơi tốt hơn một chút.
Đội ngũ dừng ở cổng huyện nha Minh Nguyệt Tháp, Chân Điều bước lên phía trước để mọi người giữ bình tĩnh, Nha Nội Huyện Lệnh đang phân nhóm người lưu vong thuộc quản lý của mình.
Mấy tên nha dịch da ngăm đen nghênh ngang nhận đút lót của những người lưu đày, còn những ai không có gì để đút lót thì nhìn người khác với vẻ hối hận và ghen tị. Bọn họ hối hận vì trước đây không chịu giữ đồ đạc của mình khi bị đánh, bị đói, nếu không thì bây giờ đã có thể xin được một công việc an toàn và thanh nhàn rồi.
Lệ Tấn Chi cúi đầu khom lưng nói chuyện với một nha dịch mặt đen, từ trong lòng lấy ra chiếc kim trâm của Vương Thị rồi đưa cho hắn ta.
Nha dịch hài lòng nhận lấy kim trâm rồi mang hắn tiến vào huyện nha.
Trịnh Thị trông mong nhìn theo bóng lưng của nhi tử, một lúc sau, Lệ Tấn Chi vui mừng bước ra, khi nhìn thấy Trịnh Thị, sự vui mừng của hắn chuyển thành hổ thẹn, sau khi nói gì đó với bà, Trịnh Thị như bị sét đánh, sắc mặt như tro tàn.
Danh sách những người làm lao dịch liên tục được công bố, phần lớn những kẻ đưa đút lót đều đã được đến những nơi an toàn tính mạng và không quá mệt nhọc.
Những người không đút lót thì thường phải đi tu sửa tường thành, đào than đá và làm những công việc nặng nhọc nhất, nữ tử hoặc là phân cho những tên mặc giáp hung bạo nhất, hoặc là bị gửi thẳng đến quân doanh làm doanh kỹ.
Trong lúc nhất thời, có người gào khóc, có người vui mừng.
“Lệ Tri……ai là Lệ Tri?”
Tên nha dịch đứng ở cửa huyện nha đọc tên của Lệ Tri, vẻ mặt có chút kinh ngạc, hắn ngẩng đầu nhìn vào đám người.
“Dân nữ chính là Lệ Tri.” Lệ Tri đứng ra.
“Ngươi…….” Nha dịch chỉ tay, “Đi Đô Hộ Phủ báo danh.”
Lệ Tri không ngạc nhiên, bình tĩnh tiếp nhận phân công.
Cùng lúc đó, Đô Hộ Minh Nguyệt Tháp Lỗ Hàm đã mời Tạ Lan Tư đến thư phòng Đô Hộ Phủ.
Thư phòng chủ yếu được làm bằng gỗ tử đàn. Trên bàn trà gần cửa sổ có một chiếc bình cao cổ tráng men màu xanh ngọc có hoa văn hoa sen, bên trong là những bông đỗ quyên trắng hồng. Trên chiếc bàn gỗ tử đàn được đặt ngay ngắn vài nghiên mực quý, đủ loại ngọc đồng, một tờ giấy viết thư mỏng được đặt trên bàn, bên trên là một phong thư vừa được mở ra.
Tạ Lan Tư vừa vào phủ, đã được mời làm thượng khách.
Lỗ Hàm bốn mươi tuổi, là một võ tướng nhưng lại giống một văn thần hơn, phong thái nhẹ nhàng, tâm tư tinh tế. Sau khi nhận được sự đồng ý của Tạ Lan Tư, hắn đã mời đại phu nổi tiếng nhất ở Minh Nguyệt Tháp đến điều trị bệnh chân cho Tạ Lan Tư.
Đại phu vẫn dùng ngân châm đâm vào trước, sắc mặt Tạ Lan Tư không thay đổi.
Đại phu thở dài, lắc đầu không ngừng.
Kết quả xem bệnh chỉ có Lỗ Hàm thất vọng, vì Tạ Lan Tư và một người khác không có mặt ở đây đều biết rằng ngay cả khi Đại La Thần Tiên đến, thì chân của hắn cũng không thể di chuyển được.
Sau khi để đại phu lui ra, Lỗ Hàm tỏ ra áy náy và dập đầu thỉnh tội với Tạ Lan Tư:
“Vi thần có tội, để Điện Hạ nhận hết gian nguy trên đường, đến nỗi hai chân bị liệt….“
Tạ Lan Tư ngồi trên sạp nhanh chóng đỡ hắn dậy.
“Ba nghìn dặm lưu đày đầy rẫy những việc ngoài ý muốn, cho dù Lỗ đại nhân có lòng, cũng là ngoài tầm với.” Tạ Lan Tư che miệng ho khan một tiếng, sắc mặt tái nhợt càng khiến hắn giống như ngọc quân tử bị hãm hại, “... Nếu trách tội ngươi, chẳng phải ta sẽ thành kẻ ngang ngược sao?”
“Điện Hạ nhân đức, giống như Thái….” Lỗ Hàm dừng một chút, “Như Đại Điện Hạ.”
“Lỗ đại nhân mời ngồi.” Tạ Lan Tư ra hiệu về phía bên kia sạp.
Sau khi Lỗ Hàm tạ ơn xong, hắn vén áo ngồi xuống, trầm giọng nói:
“Điện Hạ yên tâm, đây chỉ là đại phu nổi danh nhất trong trấn, nhưng trong sơn thôn còn có rất nhiều người tài ba dị sĩ, vi thần sẽ cho thuộc hạ đi tìm kiếm danh y ở khắp nơi, nhất định sẽ có một ngày Điện Hạ có thể đứng lên trở lại.”
“Hảo ý của Đô Hộ ta xin nhận, nhưng điều này có thể mang đến nguy hiểm cho Đô Hộ… Vẫn còn rất nhiều người ở Kinh Đô muốn diệt trừ ta.” Tạ Lan Tư tỏ vẻ do dự.
“Chỉ cần ý chỉ của Bệ Hạ không thay đổi, thì không ai có thể lấy mạng của Điện Hạ trong Minh Nguyệt Tháp.” Vẻ mặt kiên quyết của Lỗ Hàm lúc này mới cho thấy sự sát phạt quyết đoán của một võ tướng.
Tạ Lan Tư chắp tay nói lời cảm tạ, Lỗ Hàm vội nói không dám.
“Không dám giấu diếm, ta đã gặp Đại Điện Hạ khi còn là tứ phẩm đại tướng quân.” Lộc Hàm nói: “… Đó là yến tiệc đêm giao thừa trong Hoàng Cung, ta vì bận công vụ nên tới muộn, trên con đường tuyết rơi ngoài Cung, ta ngẫu nhiên nghe thấy các mưu thần bên cạnh Đại Điện Hạ đang thuyết phục ngài ấy. Hóa ra khi tất cả các Hoàng Tử đang dâng lên trân bảo và điềm lành cho Hoàng Thượng, thì Đại Điện Hạ lại dâng lên bức “Hà Tây Cơ Hoang Đồ” do một danh họa vẽ, và cầu xin Hoàng Thượng miễn tất cả các đại tiệc vào năm tới, đem ngân lượng tiết kiệm được cứu trợ nạn dân thiên tai ở Hà Tây, giúp dân xây dựng lại gia viên.”
“Lúc Hà Tây xảy ra thiên tai, Điện Hạ còn nhỏ nên có lẽ không biết nhiều về nó.” Lỗ Hàm nói, “Khi đó thiên tượng Hà Tây dị thường, một năm không thấy một giọt mưa. Các quan viên sợ phải gánh trách nhiệm nên không bẩm báo, triều đình không hề hay biết về thảm họa cho đến khi các nạn dân ở Hà Tây chạy trốn đến Kinh Đô. Lúc này, Hà Tây đã thành địa ngục trần gian. Có người căn cứ vào lời kể của nạn dân Hà Tây mà vẽ lên một bức tranh về thảm kịch ăn vỏ cây và đổi con để ăn thịt … Đây chính là bức “Hà Tây Cơ Hoang Đồ” mà Đại Điện Hạ đã dâng lên.”
“Không phải chỉ có một mình Đại Điện Hạ biết người dân Hà Tây đang sống trong địa ngục, cũng không phải chỉ có một mình Đại Điện Hạ biết là cứu trợ thiên tai có thể giảm bớt tai họa, nhưng chỉ có một mình ngài ấy vì người dân Hà Tây bất chấp sự an nguy của bản thân mà lên tiếng.”
“Cho nên, vi thần luôn tin rằng có ẩn tình khác trong chuyện mưu phản của Đại Điện Hạ.” Lỗ Hàm nói, “Nếu Điện Hạ muốn tra ra chân tướng, vi thần nguyện hiến chút lực mỏng của mình.”
Sau một hồi im lặng, Tạ Lan Tư chậm rãi nói.
“Tam Pháp Ti đều đậy nắp quan tài kết luận sự tình, dù ta có không tin thì cũng chỉ có thể tiếp nhận phán quyết.”
Lỗ Hàm muốn thuyết phục một lần nữa, nhưng Tạ Lan Tư ho lên, hắn không còn cách nào khác phải đè xuống không nhắc tới, rồi đưa trà cho Tạ Lan Tư.
“Thân thể của Điện Hạ, vi thần nhất định sẽ tìm đại phu giỏi nhất để điều trị. Điện Hạ cứ yên tâm điều dưỡng thân thể của mình thật tốt trong Đô Hộ Phủ.” Lỗ Hàm nói, “Còn về cô nương mà Điện Hạ tiến cử cho làm việc trong Đô Hộ Phủ….không biết Điện Hạ muốn an bài nàng ở nơi nào?”
Lỗ Hàm khéo léo hỏi, trên thực tế, điều muốn hỏi là nữ nhân này có phải là nữ quyến của Tạ Lan Tư hay không.
Nếu là nữ quyến, đương nhiên phải an bài họ ở cùng nhau.
Nếu không phải, vậy thì cứ dùng quan hệ thân sơ để luận bàn.
“Lỗ đại nhân quyết định là được..” Tạ Lan Tư nói, “Trên đường lưu đày, nàng đã giúp ta rất nhiều, hơn nữa….”
“Cũng không có quan hệ gì khác.”